24 December, 2005

Cái thú ôn nhu

Hai tiếng “ôn nhu” này, có lẽ chỉ để dành riêng cho những người con gái. Trên đời có biết bao nhiêu cô gái với các tính cách khác nhau, nhưng những cô gái mang nhiều nữ tính bao giờ cũng làm cho ta miên man. Nữ tính là gì, quả là khó định nghĩa. Với tôi, tôi luôn tìm thấy trong người con gái tôi yêu cái đằm thắm của một người chị, cái non nớt yếu đuối một người em, cái thông cảm sẻ chia của một người bạn và cái cám dỗ mãnh liệt của một người tình.

Ôn nhu, hai tiếng ấy gợi cho ta cái cảm giác êm đềm mà quyến rũ. Hai tiếng ấy gợi lại cái cảm giác dịu ngọt của một đêm mùa hè, khi đường phố đã vắng người, ánh đèn vàng lấp ló qua tán dâu da đen thẫm, người con gái ngồi dựa vào ta như muốn được chở che. Còn ta đắm mình trong không khí ấy, không khí thoang thoảng mùi hương từ mái tóc nàng, lặng lẽ nhấm nháp cái hương vị dịu êm và ngọt ngào của tĩnh lặng.

Ôn nhu cũng gợi lại cho chú bé lên mười một chiều bập bềnh trên sóng, cùng cô bạn mới quen, ôm chung một tấm phao mà bơi mãi ra xa. Một cảm giác vừa sợ hãi, vừa thích thú kỳ lạ khi bước vào một cuộc phiêu lưu lớn ở đời. Cuộc phiêu lưu với nhiều chuyến du hành, mà mãi đến ngày nay, mỗi khi bước vào thì cái cậu bé lên mười thưở ấy vẫn thấy hồi hộp như mọi lần.

Ôn nhu là một chiều mùa đông trên căn gác nhỏ, xung quanh lặng lẽ và rêu phong. Một chiếc giường êm, một cửa sổ nhỏ. Một thằng bạn ý tứ rong chơi ngoài phố, nay đã yên nằm ở một cõi rất xa. Người con gái dịu dàng nép vào ngực ta. Cả hai lặng lẽ ngắm bầu trời qua khung kính vỡ. Xám chì và buồn bã, bầu trời mùa đông sao lại có sức quyến rũ dị thường? Tại sao ta lại yêu từng căn nhà nghiêng nghiêng mốc xám? Yêu những tán bàng trụi lá khẳng khiu? Hay có lẽ sức ấm của căn gác ấy đã sưởi ấm cả mùa đông rét mướt trong ta?

Cậu bé mười ba có cái cảm giác ôn nhu khi cô bạn ngồi sau trêu ghẹo. Cặp mắt trong veo và tinh nghịch dưới hàng mi cong. Lọn tóc loăn xoăn phủ trên cái trán bướng bỉnh. Cô bạn như cả năm không được chơi giỡn, giờ đã tìm thấy đối tượng để thỏa chí tò mò. Còn cậu bé thì ngồi yên, mặc cho cô bạn nghịch ngợm, mặc cho bạn bè trêu ghẹo, mặc cho giáo viên cười tủm tỉm, mà lặng lẽ cảm nhận cái ôn nhu trong từng trò nghịch ngợm kia.

Ôn nhu tỉnh giấc trong một đêm lạnh. Cuốn mình trong chăn ấm. Xung quanh tối đen và yên tĩnh. Có tiếng chân khẽ bước và một nụ hôn nhẹ nhàng trên môi. Rồi tiếng chân ấy lại bước khẽ ra xa, để ta nằm đó, trong lòng đầy những trìu mến của nụ hôn còn đọng lại.

Ôn nhu là một sáng nắng vàng và mát trời trên một con đường quê. Làng thì ngợp hoa vàng mà trời thì ngợp nắng. Ta lặng lẽ cảm nhận những cái đẹp đơn sơ ấy đang lan man trong lòng. Một dáng tần tảo đạp xe liêu xiêu trên còn đường nhỏ. “Chị ơi, bán cho em một nửa gánh hoa”. Mỉm cười nhìn cô bạn gái đang cố ôm cả chỗ hoa vào lòng, mắt long lanh vui sướng, ta thấy lòng tràn ngập môt nỗi dịu êm khó tả.

Chẳng rõ có phải ôn nhu trong một đêm hè sau cơn mưa, một nụ hôn làm cậu trai run rẩy. Bao nhiêu cảm giác khó tả như trào dội bên trong. Cậu trai non nớt đắm chìm trong cái cảm giác đầu tiên nếm trải. Nhục cảm như êm đềm mà như dữ dội, quyện vào tâm hồn non trẻ, làm cậu trai ngây dại và cũng làm cậu lớn lên trên con đường tìm về với bản thân.

Cảm giác ôn nhu của một trưa hè nóng bức, công viên nhỏ thẫm những cây cổ thụ và dây leo. Những người già lặng yên ngồi trên những băng ghế cũng xanh. Gã lãng du ngồi đó, ngắm bầu trời xanh ngắt, ngắm hàng cây xanh thẫm, ngắm những cánh chim câu nhẹ nhàng chao qua, văng vẳng nghe tiếng lũ trẻ chơi đùa xa xa. Nhưng hơn cả là lắng nghe tiếng thở dịu dàng của người con gái đang ngả đầu trên vai, cảm thấy thân hình nhẹ nhõm và thân thương của nàng dựa vào mình, để biết rằng có lẽ mọi chuyện sẽ chỉ có vậy và lòng sẽ đầy đau đớn ngày mai.

Ôn nhu cũng có lẽ là một chiều thức giấc, ngắm khuôn mặt mệt mỏi và hạnh phúc của người con gái nằm bên. Ngắm nàng mà tưởng chừng như có thể cứ nằm vậy mãi một vạn năm, lòng cảm thấy ấm êm và mội nỗi dịu dàng vô bờ tràn ngập. Ngoài kia, những ngôi nhà xa lạ và những con người xa lạ, sao mà lại thấy thật thân quen.

Ôn nhu hay điên cuồng trong ta vào một đêm đã xa, khi người con gái thì thào những lời liều lĩnh? Ôi em gái nhỏ! Sao em lại cả gan nói ra những điều mà ta đã biết từ lâu, chỉ là muốn cho em được vui vẻ về sau mà ta cố như không biết. Em làm lòng ta nổi lên những cơn sóng, tuy dữ dội mà lại đắm đuối mê man. Rồi thì phải làm thế nào mà ta mới đúng là ta?

Cảm giác ôn nhu, đôi khi có thể đo được với thời gian. Một chuyến bay dài sáu tiếng, vậy mà sao chỉ như thoáng qua. Một đôi mắt đen và sáng, Một tâm hồn trong sạch của đạo Gia tô. Một mái tóc búi gọn mà ta mê mải khi buông xõa. Gặp nhau chỉ chốc lát mà sao như đã biết từ lâu. Giống như cánh thiêu thân chỉ tồn tại vài giờ, ta và em cũng chỉ tồn tại trong vài tiếng bập bềnh ấy. Chỉ vài tiếng ấy hay là hơn nữa? Chỉ biết là có những thoáng mà tồn tại mãi với với ta suốt đời, bao nhiêu năm vẫn còn cảm thấy ngọt ngào và nhẹ nhàng thoảng chút nhớ thương.

Một đồi đầy hoa vàng nho nhỏ. Một tán cây xanh mướt. Nắng vàng tràn ngập đầy bầu trời xanh. Có là ôn nhu khi ta ngồi đó, dựa lưng vào cây, và một người con gái gối đầu vào lòng ta? Có là ôn nhu khi ta bước xuống triền đồi, tay bồng thân hình nhẹ bỗng và tai vang tiếng cười trong trẻo? Là mơ hay là thực, chính ta cũng không còn nhận ra.

Ôi, ôn nhu kể sao cho hết! Cái thú vẽ mày của Trương Sưởng kể cũng quyến rũ lắm chăng! Trong cuộc phiêu lưu lớn bắt đầu từ chú bé kia, mỗi một chuyến du hành lại để lại những cảm giác ôn nhu dường như khác nhau, mà cũng dường như là một. Hồn ta như một căn gác xép, chất đầy những hành lý và kỷ vật qua tháng năm, tuy bộn bề nhưng không bặm bụi. Mỗi khi trời ngợp nắng, hay khi gió se se lạnh đưa về, hay khi lặng lẽ hút thuốc bên tách cà phê thơm, hay là khi lòng ta phẳng lặng, thì ta – cái viên thủ kho của cái kho - gác xép kia lại mở toang cánh cửa, để cho những đồ đạc ấy tự nó rong chơi, tự nó thở và sống lại những chuyến du hành đẹp đẽ ấy.


Copyrighted by KDAE (with love again :-*)

29 November, 2005

Cái thú lười biếng

Mấy hôm trước đùa với HQD và TT về “hương vị cuộc sống”, hôm nay nổi hứng muốn viết đôi chút về café. Trong nhiều thứ “hương vị” đã từng nếm qua, café có một sự hấp dẫn đặc biệt. Café thơm một cách quyến rũ, mỗi lần ngửi lại có cảm giác ngây ngất mà hưng phấn. Mới uống vào thì thấy trơn mà hơi nhựa, vị đắng hơi gắt và ẩn một chút chua, nhưng lại là một cái đắng dễ chịu; sau một lúc thì vị đắng nhẹ dần, nhường cho cảm giác dầy dặn ở lưỡi, lại hơi ngầy ngậy, có một chút ngọt đầm đầm; trùm lên cả là hương thơm từ lưỡi, tỏa khắp vòm miệng và lan lên mũi. Mùi thơm này làm ta cảm thấy xung quanh như sáng hẳn lên, mắt ta hơi khép lại và mũi nhíu lại, hít mạnh, dường như muốn hút hết tất cả hương café còn đọng ở môi. Bao nhiêu những đầu dây thần kinh ở đầu mũi, ngay giữa màng ngăn cách giũa hai lỗ mũi như đang mở ra. Mọi tế bào như đang nở rộng, đón chờ một luồng thơm ngát mà dầy chạy lên xoang muốn. Phần xoang ở trán tê đi và mắt ta hơi đờ ra để cảm nhận tòan bộ hương thơm trong khoảng trống ở trán ấy. Lúc ấy ta sẽ muốn rít một hơi thuốc, để kết thúc trọn vẹn cái cảm giác khá là thần tiên này. Café mà thiếu thuốc lá thì cũng mất đi một nửa của lạc thú. Ấy nhưng đi cùng với cái thú uống café, còn có một cái thú khác, khá là mất thời gian, uể oải và lười biếng, nhưng dễ chịu vô cùng. Ây là cái thú ngồi quán.

Dân Việt thích uống café, mà dân Sài Gòn là tiêu biểu, cứ nhìn vô số các quán cóc ở cái thành phố đông đúc này mà luận. Trong vô số những quán cóc ấy, có một cái nằm ở góc một ngã tư, nơi có nhiều ngân hàng và công sở. Cái quán ấy nằm dưới bóng một cây điệp lớn cho nên luôn mát dịu. Sài Gòn nhiều điệp, mỗi năm lại có một mùa điệp nở vàng ruộm khắp thành phố, trông thích mắt vô cùng. Cái quán ấy trước đây có vài cái ghế song, mấy cái bàn gỗ xếp, café thì cũng tầm thường; nhưng có cái thú ngồi ngắm phố xá, lắng nghe những chuyện thượng vàng hạ cám ở những bàn bên cạnh. Mỗi sáng rảnh rỗi, khi ngoài cửa sổ ngập nắng, lòng ta lại nổi lên một mong muốn khó mà cưỡng lại, ấy là cầm theo một cuốn sách, lững thững thả bộ lên phía ngã tư. Nắng Sài Gòn tuyệt đẹp: luôn vàng rực rỡ, phủ lên bóng điệp xanh ngắt lại càng dễ chịu; nó gợi cho ta cái cảm giác ngày hôm đó thật là đáng sống và muốn sống cho trọn. Chọn cái bàn quen thuộc, gọi một ly café, vừa đọc sách, vừa hút thuốc, mỗi khi mỏi mẳt lại ngửng lên ngắm các cô văn thư đi qua đi lại giữa các ngân hàng và công ty. Chỉ cần nhìn mọi người bận rộn qua lại, mà ta lại cảm thấy vui vui. Đôi lúc đọc đến đoạn sách hay thì bật ra cười một mình. Sài Gòn mùa mưa, có những lúc trời chợt tối sầm, gấp sách, ngồi co hai chân tránh ướt dưới cây dù lớn, ngắm mưa Sài Gòn mờ khắp, gọi với bà chủ quán: “Dì ơi, một café sữa nóng”. Ngồi giữa một vòng tròn khô ráo, xung quanh là nước rào rào, lại có một cái thú riêng. Bây giờ ở bên này, nắng cũng rất vàng, cây cũng rất xanh, người cũng rất đẹp, lại thêm café rất ngon, công bằng mà nói là hơn ở nhà nhiều. Vậy mà ta lại luôn ám ảnh bởi cái quán lề đường kia, thèm được một sáng nhàn nhã, lại đem sách ra đầu đường mà gọi một ly café.

Sài Gòn cũng nhiều café vườn. Sáng Chủ nhật, chạy xe lên gặp đứa bạn thân, đi loanh quanh trong con hẻm khấp khúc nửa xanh nửa nắng, rồi ghé vào cái quán vườn quen thuộc. Tuy là thường nằm những nơi hẻo lánh, lại quanh co trong hẻm mấy lần rẽ, vậy mà các quán café vườn ít khi vắng khách. Quán thường mở nhạc, và thường thì nhạc không hay, café cũng thường thường, và thường thì ngọt lịm. Có quan trọng gì, bên ta có thằng bạn, chẳng cần nói nhiều mà vẫn hiểu nhau; lòng ta có nặng thì chỉ cần ngồi yên lặng cạnh bạn, cũng đã thấy vợi bớt đi nhiều. Yên lặng ngồi đó, ngước mắt nhìn những đốm nắng xuyên qua tán cây, ngắm đám thanh niên nam nữ ở các bàn khác chuyện trò rôm rả, tại văng vẳng những giai điệu mà ta không bao giờ để ý, để đầu óc chơi vơi đi đâu đó, và cảm thấy thật yên tâm, cảm thấy thật dễ chịu khi có bạn ngồi bên.

Người Đà Nẵng cũng chuộng café không kém, tuy rằng thói quen ngồi quán dường như có khác. Buổi sáng sớm, các quán café kín những người. Buổi sáng muộn, người vẫn ngồi chật kín. Có cảm giác những người uống café ấy không rời chân nửa bước, không đi làm, không di chơi, vẫn cứ rù rì nói chuyện, vẫn yên lặng nghe nhạc. Khác với Sài Gòn, sau 8 rưỡi sáng, người ta đã ăn sáng xong xuôi, đã uống hết café, đã đọc xong tờ báo, và người ta đi vào sở hoặc đi vào chợ, để lại những quán cóc vắng khách. Quán café Đà Nẵng làm cho người ta có cái cảm giác mỗi quán thuộc về một thành phần khách nhất định, một thứ câu lạc bộ riêng; làm cho ta ngần ngại khi định bước vào: chỗ này có dành cho ta?

Kiếm một cái xe máy, phóng qua Non Nước, chạy xuống Hội An. Quán café Hội An lại có một phong vị riêng. Sáu giờ chiều, trời sâm sẩm tối, quán thắp đèn lồng. Cả thành phố treo đèn. Một cảm giác cổ xưa mà lạ lẫm. Sự im ắng của một thị trấn nhỏ, sự cũ kỹ của các căn phố, màu gỗ tối của từng gian nhà, tất cả tạo nên một cảm giác là thời gian nơi đây trôi thật chậm. Lặng lẽ ngồi hút thuốc, ngắm bóng chiều tà đang tắt dần trên mái Chùa Cầu, tự dưng ta lại cảm thấy buồn buồn.

Đà Lạt có một quán café nổi tiếng. Quán đã lâu năm lắm, tường đã chuyển sang màu vàng ám khói, dường như bao nhiêu khói café và khói thuốc qua bao nhiêu năm đã quyện chặt vào. Quán tối mờ, lãng đãng khói thuốc. Quán hay mở nhạc xưa, nhạc trẻ Pháp đã từ lâu lắm, làm cho khách uống café tuy còn trẻ mà cũng cảm thấy hoài cổ. Quán làm ta nhớ đến café Paris nhờ có một băng ghế đệm da dài dọc tường. Chà, chút café Paris ở đất Việt? Không dễ gì mà có nhỉ. Vậy mà chỉ nhờ một băng ghế. Chẳng hiểu sao cô chủ quán ngày đó lại trông rất lạnh lùng, chắc hẳn cô ít ra đường lắm: da cô xanh mướt và trông như trong suốt. Nhìn cô đứng sau quầy, gợi ta nghĩ đến một món đồ cổ: để bày cho đẹp và không đụng tới bao giờ. Uống café nơi đây có lẽ điều thú vị nhất ở cái thành phố mù sương này: nhấp từng ngụm café nhỏ, chậm rãi thở khói thuốc, ngắm những bóng người thấp thoáng trong lớp sương dày ở dốc chợ. Ngày xưa, đã lâu lắm, thường lui tới quán này có một nhạc sĩ gày gò cùng với một cô sĩ có giọng hát ấm và điềm đạm. Bây giờ người ta vẫn khẽ chỉ cho nhau chỗ ngồi ngày trước của họ, như một thứ di tích.

Huế luôn mưa. Thành nội đường vắng tanh. Quán café trong nội lẫn trong đám tường rêu. Ngồi trong quán một ngày sau tết, trời thì lạnh mà xung quanh thì ướt, chính ta cũng cảm thấy ủ ê. Cả thành phố dường như lúc nào cũng đeo một nỗi buồn lớn. Mọi thứ dường như đang đi vào lãng quên: xâm thực, ẩm ướt, rêu phong, mục nát. Từ quán nhìn ra, những bóng ô xiêu xiêu đưới mưa, bao nhiêu nỗi buồn Huế cũng như ngập cả vào lòng.

Cho dù quán café Đà Lạt trông có một chút Paris, nhưng không khí café Paris thì khác hẳn: không quá yên ắng, cũng không quá ồn ào, đầy vẻ trí thức, lại có vẻ nghệ sĩ. Đến Paris, người ta thường nghĩ ngay đến tháp Eiffel, điện Louvre, Champ Élisée… nhưng muốn biết cuộc sống Paris thì chẳng gì bằng đi ngồi quán café. Người Paris không thể sống thiếu cái le café của họ, không hiểu quán café mà biến mất thì Parisien sẽ xoay sở ra sao? Một phần không nhỏ cuộc sống của họ diễn ra quanh bàn café: làm việc, trao đổi, tán gẫu, ăn uống… Nhưng ông bồi bàn - thực sự là ông, trông họ mới kiêu gớm chứ, làm ta cũng sinh ra ngại ngùng – mặc áo “gi lê” có dây xà tích, đeo tạp dề đen, trên mũi một cặp kính tròn, nghiêng mình đầy kiểu cách mà hỏi ta muốn dùng gì. À à, lại bập bẹ một câu tiếng “tây” duy nhất: “Une café, s’il vous plait”. Đã tưởng dân ta thích uống café, nhưng quả thật chẳng thể so được với dân Paris. Dân Paris “ngồi đồng” ngoài quán, chẳng bao giờ thấy họ không uống café. Sáng ra: uống, giải lao: uống, ăn trưa xong: uống, ăn chiều xong: uống, ăn đêm xong: uống. Mà họ ăn đêm có sớm sủa gì cho cam: toàn sau 11 giờ, vậy mà vẫn tráng miệng café. Quán café Paris có một điểm chung, đó là sự nhẩn nha. Sự hưởng thụ, nhấm nháp café và hưởng thụ, nhấm nháp cuộc sống. Phải chăng điểm này dân ta giống dân Pháp hay là do các vị thực dân đã “lây” sang dân ta? Ngồi café Paris một lần thì mãi không quên. Cái cảm giác dễ chịu một sáng mùa hè ngồi ở một quán trên ngã tư quận 13, ngắm những ngôi nhà đều đặn cuối thể kỷ 19, ngắm đường phố mát mẻ trong cây xanh; bỗng dưng lại nhớ Hà Nội: các vị thực dân quả thực đã “cấy” được một chút không khí Paris vào Hà Nội.

Dân Pháp tuy nổi tiếng về quán café, nhưng café thì phải kể đến dân Ý. Người ta bảo, Cappuccino đi ra khỏi nước Ý thì không còn là Cappuccino nữa. Có lẽ nói vậy thì không khỏi quá lời, nhưng không hẳn là không có lý. Ở Melbourne, chỉ cần uống Cappuccino từ một quán café thường và Cappuccino từ một quán café Ý thì biết. Lần đầu uống Cappuccino ở nước Úc thật không thích chút nào: café nhạt phèo, lại quá nhiều sữa đã bỏ bớt chất béo. Nói cho đúng đó là một thứ dung dịch lờ lợ, nhạt toách. Nhưng rồi ta cũng phải quen đi, thầm thở dài: “That’s the way things are”. Rồi một lần đợi tàu điện ở đường Victoria, buổi tối mùa đông Melbourne làm ta co ro. Đối diện có một quán café Ý. Bụng thì đói mà người thì lạnh, nghĩ đến một ly Cappuccino vừa làm ấm người mà lại không sót ruột. Ly Cappuccino ấy là một sự kinh ngạc: vị café đậm đà mà thơm ngát, vị sữa bùi béo mà ấm, vị bọt sữa trên cùng ngầy ngậy, lại thêm chút bột “sô cô la” thơm thơm ngọt ngọt. Vừa thích thú, vừa ngạc nhiên, bụng ta rủa thầm dân Úc dốt café lừa mình bấy lâu.

Tuy Cappuccino Melbourne là cả một sự thất vọng lớn, nhưng quán café Melbourne thì thật tuyệt. Nghỉ đông (lại mùa đông), cùng với đám bạn thả bộ dọc phố, vừa đi vừa nói chuyện cười nghiêng ngả. Thường điểm cuối cùng là một hẻm nhỏ trên đường Little Collins. Hẻm này có mấy hàng café rất ấm cúng. Gọi một short black, chọn một bàn ngoài trời gần lò sưởi ga. Ngồi như vậy thì một nửa người thì ấm ran, mà nửa người kia thì bị gió thổi lạnh buốt. Nhìn đám bạn mặt hồng lên vì hơi ấm, hứng khởi nhờ café, đang cười cười nói nói, một cảm giác ấm áp từ bên trong ta lan ra khắp người. Cuộc vui nào rồi cũng kết thúc, bạn bè rồi cũng chẳng thể ở cạnh nhau được mãi. Bây giờ mỗi khi ngồi ở con hẻm ấy là ta lại thấy nao nao.

Hà Nội có một quán café làm gợi nhớ đến Melbourne. Quán có hai cái lò sưởi ga, có lẽ cả Hà nội chỉ nơi đây là có của hiếm này. Café ở đây cũng rất ngon, đặc biệt là Cappuccino thì nhiều quán café ở châu Úc hay châu Âu cũng trông không hấp dẫn bằng. Chắc quán này có khuôn đặc biệt, vì bọt sữa nổi cao hẳn ra khỏi miệng tách đến 5, 6 phân, mà lại tròn trịa, sắc nét như một hình trụ. Nhìn tách Cappuccino ở đây đã thấy thích, chứ chưa cần uống. Uống rồi thì dám khẳng định: Cappuccino Hà nội ngon hơn Cappuccino Úc rất nhiều. Mùa đông (lại mùa đông nữa), ngồi dưới lò sưởi, bên ta là đám bạn đã từng cười như tết với nhau ở Melbourne, tưởng như lại quay ngược được thời gian. Nhưng bây giờ bên cạnh mỗi bạn ta đều đã có một người, thậm chí là hai. Cảm thấy vừa mừng mà lại thấy thoáng chút buồn. Thời gian trôi nhanh quá!

Ngay cạnh quán café ấy là một quán khác cũng thú vị vô cùng. Điểm thích thú nhất ở đây là phục vụ, có lẽ cả Hà Nội chẳng đâu chu đáo bằng nơi đây, mà cũng rất là kiểu cách. Nhiều tối, khi mà công việc đã tạm xong, tự dưng có cảm giác cô độc, ta lại nghĩ đến chỗ này. “Mày đang làm gì vậy?” – “Tao đang ở xưởng” – “Rượu vừa mới rót, mày lại đây đi” – “Ờ, tao qua”. Bao nhiêu suy nghĩ, hai kẻ chóng già. Chai rượu cứ vơi dần. Anh quản lý bảnh trai mà kiểu cách chẳng bao giờ để cho ly phải cạn. Bàn bên kia, một anh bartender đang mix café. Chà, café quái quỉ gì mà pha như ảo thuật! Nào rượu, nào kem, lại thêm cả lửa, cứ tráng qua tráng lại, chảy lên chảy xuống. Ta và bạn nhìn nhau cười. Bao nhiêu nỗi cô độc cũng như vợi bớt. Điện thoại lại rung. “Alô” – “Mày lại đây mau lên, có hai em đang làm tình làm tội tao”. Ta phá ra cười, cuộc sống nhiều điều thú vị ghê.

Không xa hai quán này, có một quán ngồi rất dễ chịu, có lẽ là quán café “Pháp” nhất đất này, ngay cái tên thì cũng đã “Pháp”. Quán trông ra một quảng trường thoáng đãng. Nắng chói hắt vào tòa nhà lớn trước mặt, xuyên qua tán xà cừ, chiếu vào quán thì đã thành vàng dịu. Anh phục vụ đem cho ta tách café latte quen thuộc mà không cần phải gọi. Ngoài kia, xe cộ qua lại, cuộc sống diễn ra tấp nập, ta ngồi đây ngắm nhìn, đọc vài chương sách. Bên kia đường, mới treo một ‘băng rôn’: vài ngày nữa là có hòa nhạc thính phòng. Cảm giác thực sự của Hà Nội là đây: hài hòa và nhẹ nhàng, cho dù qua vài chục năm cái tất bật, bon chen tưởng chừng đã nuốt hết tất cả.

Chỉ cách quán này hai con phố, là môt quán lộ thiên. Quán nằm trên vỉa hè, một nửa trong sân. Buổi sáng ngồi nơi đây là thích thú nhất: nắng mới, đường vắng, xà cừ xanh, biệt thự “tây” cũ kỹ, trí thức, nghệ sĩ, ca sĩ, café rẻ. Đã thành lệ, ngày nào cũng phải đến đây một lần, thỉnh thoảng lại bất chợt gặp người quen. Café nơi này, rất Hà nội mà cũng rất Paris, cũng bao nhiêu mảnh của cuộc sống đã diễn ra quanh bàn café: công việc, ăn uống, chuyện gẫu, tán tỉnh… Có một người mà ta vừa cồn cào mong được nhìn thấy, mà lại vừa sợ phải gặp, sau cùng ta đã trông thấy ở đây. Sao con người lại luôn mâu thuẫn?

Viết đến đây rồi thì lại không muốn tiếp nữa. Cho dù lúc đầu cũng muốn chia sẻ hết với mọi người những quán café thú vị, làm nên một thứ “hương vị cuộc sống” này. Hà Nội còn rất nhiều điều hay nữa về café và quán café. Sài Gòn cũng lắm chẳng kém. Quanh đất Việt còn vô số những nơi mà ta đã qua, đã ngồi mà không thể kể hết. Cả những quán café ở châu Âu hay châu Úc, nơi nào cũng có điểm thú vị riêng. Thôi thì cũng nên dừng lại ở đây, vài ngàn chữ đã là quá đủ. Khi nào “cảm giác lười biếng” nổi lên thì sẽ lại tính sau.


Copyright by KDAE (with love)

13 November, 2005

Hoa dạng niên hoa

Viết tặng em và ba ngày tương tụ
Busan, đêm 12 tháng 11 năm 2005


Đã ba năm rồi ta không biết thế nào là sợ hãi. Lý do rất giản đơn: bởi đã từ lâu ta đã không còn gì để mất. Thế nhưng đêm qua, tám tiếng phiêu bạt trên không trung cũng là tám tiếng lạc hồn. Có lẽ đến giờ ta mới chân chính thấu hiểu và thực sự đồng cảm với Lestat. Vẻ mong manh của em, ánh mắt u buồn của em, bờ môi ngọt lịm của em, bỗng trở nên quý giá hơn tất cả những gì ta từng biết. Em trong veo như pha lê với nụ cười lấp lánh nơi khóe mắt. Em long lanh như sương khói khi nghẹn ngào nhỏ lệ dưới hàng mi. Và ta sợ, sợ những khoảnh khắc quý giá ấy bỗng như chiếc phao cứu sinh duy nhất trôi tuột khỏi tay mình.

"Biệt ly vốn là để tương tụ!". Nếu bi kịch lớn nhất của nhân sinh chính là biệt ly, thì hân hoan lớn nhất của nhân sinh chính là tương tụ. Còn ký ức, ký ức chính là cây cầu nối liền hai bờ nhân sinh ấy. Và mỗi trái tim tình nhân cũng chính là một Angkor Wat, ngôi đền thiêng liêng nơi ta đã lặng lẽ chôn vùi những hoài niệm của một thời xưa cũ dưới ánh tà dương.

Phảng phất trong suốt chín mươi tám phút huy hoàng và mỹ lệ của Christopher Doyle là một màu ngọc bích, hay màu của mắt em xanh biếc đến lạ kỳ... aquellos ojos verdes… Từ chiếc máy điện thoại cổ lỗ của thập kỷ sáu mươi, từ ly café trong quán vắng, từ chiếc taxi của đôi tình nhân… Màu rong rêu thảm đạm của thời gian, hay màu vĩnh viễn trường tồn của ký ức?

Nơi con phố nhỏ, em giấu mặt trên vai ta khóc òa. Những bức tường loang lổ, những khung cửa rỉ sét dưới mưa đêm, thấp thoáng một chậu cây phía sau hàng song sắt. Tất cả đều điêu tàn và hoang phế, tất cả đều đã là trầm tích của thời gian. Chỉ còn lại em, bờ vai nấc nghẹn. Chỉ còn lại ta, âu yếm vỗ về. Ký ức ơi! Sự bất tử của ngươi làm ta si mê, nhưng cũng làm ta run sợ. Ta sợ một ngày kia, em sẽ không còn hiện hữu, em sẽ chỉ còn là một ảo ảnh mơ hồ qua ô cửa kính màu ẩm ướt, một bóng hình vỡ tan trong tấm gương tròn rạn nứt, bởi em đã thuộc về một-thế-giới-không-ta.

Dưới ánh đèn vàng nơi căn gác nhỏ, đã bao lần ta và em lặng lẽ lướt qua nhau? Đã bao lần ta và em đổi trao những lời thăm hỏi xã giao đầy nhạt nhẽo? Để rồi một ngày kia, cả hai cùng dấn thân vào một cuộc chơi ngõ hầu chia sẻ nỗi thất vọng trước tình yêu. Để rồi một ngày kia, sắc lá đã vàng. Để rồi một ngày kia, màu nắng đã phai. Ta không bao giờ cảm nhận được lá đang đổi màu, nắng đang nhạt sắc, cũng như không bao giờ biết được khi nào ta sẽ yêu một người. Để rồi một ngày kia... ngỡ ngàng, ta chợt nhận ra mình đã yêu em.

Em bật khóc khi nghe lời thú nhận của ta. Em bật khóc khi cùng ta ly biệt. Chỉ là những vở diễn thôi em, chỉ là những lần đóng thử... nhưng yêu thương là thật, và nỗi đau cũng là thật đấy, em ơi. Với ta, đớn đau đã trở thành một người quen cũ, như con đại bàng hàng ngày bay đến làm bạn với Prometheus vậy thôi. Chỉ khác một điều: nếu Prometheus kiên cường thay nhân loại, thì ta dấn thân vì chính trái tim mình. Thế nhưng ta vẫn sợ nhìn em khóc lắm, biết không?

Vở diễn biệt ly sau cùng đã trở thành ly biệt thật. Hy vọng một cách tuyệt vọng vào tương tụ, ta gọi cho em.

"Nếu còn dư một vé, em sẽ đi cùng ta nhé?"

Van em, đừng trả lời ta "Quizás! Quizás! Quizás!"

Hãy nói, chỉ một lần: "Yes, I do".

__________________

(*) Aquellos ojos verdes (Those green eyes) - Nat King Cole

(*) Quizás! Quizás! Quizás! (Perhaps! Perhaps! Perhaps!) - Nat King Cole

(*) Thần Prometheus vì ăn cắp lửa trên đỉnh Olympus cho nhân loại mà bị Zeus trừng phạt bằng cách trói vào vách núi Caucasus, và sai một con đại bàng hàng ngày bay đến moi gan. Khi đêm xuống, vết thương của Prometheus sẽ lành lại để chờ đợi ngày hành xác tiếp theo.

18 October, 2005

Giai nhân nan tái đắc

Thành nghiêng nước đổ mặc bay
Giai nhân
gặp một lần này mà thôi


Tôi có một cái tính hơi xấu (hoặc rất xấu) là ít để ý bài viết của mọi người trong những topic bàn luận về phim ảnh, mà chỉ viết theo ý mình, viết những gì mình nghĩ, không buồn nhìn đến thiên hạ, và cũng không buồn bảo vệ quan điểm của bản thân hay phản đối quan điểm của người khác.

Tôi rate cho TDMP điểm 7/10. Đây là một bộ phim không mạnh về kết cấu và cũng không toàn bích. Kẻ nhặt ra sạn thì nhiều, mà nguời tìm thấy ngọc thì ít. Cũng có vài người khen nhạc phim hay, nhưng thực sự để ý đến nó thì có lẽ không bao nhiêu. Chiều ý một người, tôi quyết định viết vài dòng lạn mạn...

Khi xem TDMP lần thứ ba, tôi cứ ngơ ngẩn vì sao nó tạo cho tôi một cảm giác chao chát khó tả nhưng đầy quen thuộc. Cũng khá tình cờ mà tôi nhận ra điều này, vì vài ngày trước đó tôi xem Love Trilogy của Vương Gia Vệ. Nhà soạn nhạc của TDMP chính là Shigeru Umebayashi, những bản instrumental ông soạn cho TDMP vừa giống mà vừa khác Yumeji's theme, Polonais, Adagio, Long journey và 2046 main theme.

Tôi nghĩ Trương dành không ít tâm huyết cho phim này, theo một cách khác hơn những ưu uất ông đã gửi gắm vào Thu Cúc, Đại hồng đăng hay Phải sống; chứ không đơn giản chỉ vì mục đích thương mại như nhiều người vẫn nghĩ. Mỗi khi xem Hoa dạng niên hoa, tôi cảm thấy tiếng cello như đang quặn thắt theo từng nhịp bước của Tô Lệ Trân dưới ngọn đèn vàng trên con phố nhỏ. Cảm giác của tôi khi nghe Flower garden, Farewell và Bamboo forest đều như vậy. Nhạc của Shigeru nghe thê thiết lắm, và hoàn toàn không hời hợt chút nào. Một khi Trương đã dành cho tác phẩm của mình những giai điệu như thế, ông hẳn phải đang ấp ủ một nỗi niềm tâm sự. Cũng như Vuơng Gia Vệ một đời day dứt với những đam mê và ký ức, những hoài niệm và thương đau.

Tôi nghe Giai nhân ca và cảm nhận được nỗi buồn đang lắng đọng. Lý Diên Niên trước tác khúc ca này khi Lý phu nhân đang ở tột đỉnh của vinh quang, nhan sắc và danh vọng - sủng phi của Hán Vũ đế. Nhưng vì sao âm hưởng bài ca nghe có gì đó héo úa, thê lương và điêu tàn đến thế. Nó như một điềm báo cho cả Lưu và Kim: giai nhân nan tái đắc. Lưu đã có Tiểu Muội một lần, anh ta sẽ đánh mất nàng. Kim sẽ có Tiểu Muội một lần, và anh ta cũng sẽ đánh mất nàng.

Như nhiều người nói, phim này phục vụ cho khán giả phương Tây là chủ yếu. Tình yêu của TDMP không phải là thứ kỳ tình Trung Hoa điển hình "thập niên sinh tử lưỡng mang mang" của Dương Quá và Tiểu Long nữ. Nó là thứ tình yêu phương Tây theo kiểu carpe diem*. Tôi nhớ cảnh Kim và Tiểu Muội ân ái giữa cánh đồng hoa. Cũng chính giữa cánh đồng hoa ấy, không bao lâu sau dòng máu biếc xanh đã nhuộm đẫm khuôn ngực nàng. Tình yêu là thế đó, tàn nhẫn như một giấc mộng giai kỳ ngắn ngủi đến vô tình. Tự nhiên tôi nhớ Máu biếc xanh và ngực tối của Lê Uyên Phương. Tôi hôn em, môi cực cùng ly biệt...

Ám ảnh biệt ly, ám ảnh đoạn lìa chính là như thế... "vừa hoa nở tươi môi, tình nhân đã xa xôi. Ðời ngăn cách nhau hoài, một lần thôi đã không thôi..." Khó mà quên được cảnh Kim và Tiểu Muội nằm bên nhau trên cánh đồng hoa, ánh mắt cả hai đều xa xôi vô định. Sau những phút giây hoan lạc, họ không thể thiếp đi trong hạnh phúc và mãn nguyện như những cặp tình nhân khác. Họ mãi nghĩ về con đường trước mặt, dù không thể tìm ra lối thoát cho mình. Nhưng họ vẫn yêu nhau, "yêu nhau trong lo âu" như Lê Uyên Phương từng viết.

Trong cõi đời này, còn ai có thể phóng túng không câu thúc đến mức "tùy phong". Nhưng cả con gió phong lưu "lai vô ảnh khứ vô tung" ấy mà cũng đành bất lực, đấy mới chính là bi kịch trí mạng của tình yêu, đấy mới chính là ý nghĩa của thập diện mai phục. Cũng như cái bi kịch của Hạng Vũ trong Cai Hạ ca hơn ngàn năm trước.

Cảnh rừng trúc với hai bàn tay đôi tình nhân vươn ra siết chặt lấy nhau hơi cliché một cách không cần thiết. Không cần thiết, vì Trương đã có thảo nguyên. Chỉ thảo nguyên đã là quá đủ.

Ở Mẫu Đơn phường, Tiểu Muội có nói một câu: Hoa ở đây không thể được coi là chân hoa, chân hoa phải mọc ở nơi "sơn dã lạn mạn" (đồng cỏ bao la tươi sáng). Kim trả lời: Chỉ cần nàng làm ta cao hứng, ta sẽ đưa nàng tới nơi "sơn dã lạn mạn". Không phải ngẫu nhiên mà đôi tình nhân sau này đã yêu nhau và cũng đã mất nhau giữa chốn thảo nguyên bao la và tươi sáng ấy. Thảo nguyên chính là những cảnh huy hoàng nhất của tác phẩm. Đó chính là nơi cả Kim và Tiểu Muội cảm nhận được sự nảy nở của tình yêu trong trái tim lừa dối, khi kề sát vai nhau giữa vòng vây bộ khoái. Đó chính là nơi họ đã gạt bỏ mọi mưu toan, nghĩa vụ, gạt bỏ cả số mệnh để ôm siết lấy nhau đầy say đắm. Cũng chính thảo nguyên là nơi đặt dấu chấm hết cho cuộc tình bi thảm ấy. Hình tượng thảo nguyên, chính là Ngưỡng Vọng của một tình yêu. Có ai nhớ Ngưỡng vọng của Tạ Vũ Hân không? Tại nhĩ hoài lý thành trưởng, tại nhĩ hoài lý tử khứ, giá tựu thị ngã tuyển trạch đích túc mệnh. Lớn lên trong vòng tay của chàng, chết đi trong vòng tay của chàng, đó chính là định mệnh mà em đã chọn. Với Tiểu Muội, thảo nguyên chính là định mệnh mà nàng đã chọn!

Tôi hay nở một nụ cười khinh mạn khi nhiều người chê cảnh Tiểu Muội gượng dậy với lưỡi phi đao trên ngực. Hãy coi câu chuyện như một bài thơ tình, và đừng đem cấu trúc bốn ngăn hai thất hai nhĩ của trái tim để giải thích ái tình và những hình tướng của ái tình. Ngu Cơ của tôi, em không chỉ chết một lần! Bích huyết hóa vi giang thượng thảo, hoa khai cánh tỉ đỗ quyên hồng. Có hiểu cái đắm đuối của thứ tình yêu hiện sinh đầy hối hả, mới cảm được cái dụng ý của Trương. Tôi cũng không buồn tranh cãi về chuyện yêu ba ngày và yêu ba năm (dù cá nhân tôi nghĩ rằng anh chàng Lưu kia yêu ba năm without making love thì thua ba ngày của Kim là chắc). Chỉ xin kết thúc với đoạn kết của Dạ khúc cho tình nhân:

Ái ân ơi đừng phụ lòng ta
Nhớ thương sâu xin gởi người xa
Khóc nhau trong cuộc đời
Giấc mơ xưa khăn phủ vành sô
Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau
Chết bên nhau thật là hồn nhiên...
_______________

(*) Tiếng Latin "carpe diem", dịch sang tiếng Anh: seize the day, là một thuật ngữ thơ ca khởi đầu từ thi hào La Mã cổ đại Horace. Đây có thể coi như người khơi nguồn cho chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), khi khuyên nhủ con người hãy sống gấp, hãy tận hưởng như ngày mai là ngày chúng ta lìa bỏ cuộc đời.

26 September, 2005

Liễu

Liễu…

Ta viết khúc bi thương này để tặng bốn trăm năm mươi ngày cuồng si và mê đắm, tặng một chữ Liễu của ngọc nữ điêu linh… Ước gì có thể gửi tâm tình vào một bài thơ, nhưng than ôi, tang loạn vô biên như sóng quật tràn bờ, thi tứ nghẹn ngào như cung cầm cuồng nộ…

Liễu, hảo liễu chi ca, thiên cổ chi tình… Ai sánh bằng liễu nhứ phi phong, ai so nổi hồn hoa ngày cũ…

Liễu, là Tiểu Long nữ dưới Tuyệt tình, là Hoạt tử nhân ngoài Cổ mộ, là hạo khí thanh anh, là tiên tài trác lạc… là mộng ước thần tiên, là mây bay vạn dặm… là tuyết lạnh tung hoa sầu mắt biếc, là trăng đêm hoài viễn nhớ sen hồng…

Liễu, là Nhược Thuỷ nhu mì mà say đắm, là Thuý Thuý dịu ngọt mà kiêu sa, là ánh sáng chớp rèm mi, là gương xưa buồn tóc trắng…

Liễu, là hồn bướm mơ tiên, là cô phụng gọi hoàng, là bao nồng nàn ngưng đọng lời thơ, là thoáng ngượng ngùng tan theo xuân ý…

Liễu là đoạn tuyệt nghìn trùng, là dứt tình muôn thuở…

Thái phượng vân trung duyên liễu kết
Tiên sơn hải thượng hận vô hoàn...

18 August, 2005

Anh hùng - Cẩm tú Trung Hoa

Bàn về Anh hùng, dễ đấy mà khó đấy.

Dễ ở chỗ luận anh hùng là một chủ đề rất được yêu thích từ trước tới nay. Dễ ở chỗ anh hùng thật ra là cảnh giới mà biết bao con người bình thường muốn đạt tới, nhưng nhiều khi chính cảnh giới đó lại trú ngụ trong sự bình thường nhất của mỗi một con người. Vì thế cho nên ai cũng muốn bàn, ai cũng có thể bàn.

Khó ở chỗ Trương đã cố gắng (và phần nào đã thành công) trong việc thổi vào Anh hùng cái linh hồn của Trung Hoa xưa cũ, điều mà Từ Khắc đã từng làm và đã từng thành công trên một bình diện khác và bằng những phương pháp khác với Once upon a time in China - Trung Hoa một thuở.

Trước hết nói về cái tên. Khẳng định một điều: Người hùng - tên Thiên Ngân dịch và phát hành ở thị trường Việt Nam không phải là một cái tên chính xác, nếu không muốn nói là đã bóp méo chủ đề của tác phẩm. Chỉ có Anh hùng mới là cái nhan đề thực sự, đúng đắn và duy nhất. Vì sao? Vì Người hùng là một cá nhân, một con người cụ thể. Anh hùng của Trương không thế. Anh hùng của Trương là một khái niệm, và bộ phim của Trương cũng là một khái niệm, hay một tác phẩm của chủ nghĩa khái niệm (conceptualism).

Và lại là những cái tên. Vô Danh, Trường Không, Tàn Kiếm, Phi Tuyết, Như Nguyệt. Thật sự họ là ai? Họ không là ai cả! Không chỉ Vô Danh, mà tất thảy bọn họ đều là những con người vô danh. Hãy nhớ Ngọa hổ tàng long! Lý Mộ Bạch họ Lý tên Mộ Bạch, là cao thủ của Võ Đang, Du Tú Liên họ Du tên Tú Liên, là nữ hiệp của Nga Mi. Họ thật và họ tồn tại. Còn Tàn Kiếm, anh ta họ gì? Phi Tuyết, cô ta họ gì? Không có! Một thanh kiếm gãy, một đóa tuyết bay, tất thảy đều là sự ước lệ, tượng trưng và hư cấu. Trung Hoa có hẳn một cuốn sách chép họ trong thiên hạ (Bách gia tính), nhưng vì sao tất cả những người này đều không có họ? Vì căn bản họ không tồn tại với tư cách cá nhân, họ chỉ là những khái niệm mà thôi. Và tên của họ, bản thân nó đã nói lên rất nhiều điều. Điều này có lẽ đã được tái hiện trong Vô cực: Bắc cung hầu Vô Hoan, Khuynh Thành, Côn Lôn.

Chúng ta có câu chuyện màu đỏ, câu chuyện màu lam, câu chuyện màu trắng? Câu chuyện nào là thực, điều đó không quan trọng. Nhưng cái thực hiển hiện trong trong từng chi tiết của mỗi câu chuyện, dù thật hay giả, chính là những nét tiêu biểu và điển hình cho giá trị của một thời đại phong vân.

Vô Danh, anh ta là ai? Anh ta là hiện thân cho tinh thần hiệp khách Trung Hoa cổ đại. Vì sao anh ta lại là người Triệu, chứ không phải Hàn, Ngụy, Tề, Yên, Sở. Vì sao tuyệt chiêu của anh ta lại là giết người trong mười bước, mà không phải năm bước hay chín bước. Vì sao anh ta tên là Vô Danh? Vì Lý Bạch đã tạo nên cho văn học Trung Hoa một hình tượng như vậy, và Trương chỉ giản đơn kế thừa nó, hình tượng hóa nó bằng vai diễn của Lý Liên Kiệt.

Triệu khách mạn hồ anh (Người khách nước Triệu dải mũ phất phơ)
Ngô câu sương tuyết minh (Thanh kiếm ngô câu long lanh trong sương tuyết)
...
Thập bộ sát nhất nhân (Mười bước giết một người)
Thiên lý bất lưu hành (Không ra ngoài ngàn dặm)
...
Sự liễu phất y khứ (Xong việc rũ áo ra đi)
Thâm tàng thân dữ danh (Giấu kín tên tuổi thân phận của mình)

Đây là sáu câu trong bài Hiệp khách hành của Lý Bạch, cũng chính là tư liệu để Trương xây dựng nên Vô Danh. Anh ta chính là mẫu hiệp khách kinh điển của Trung Hoa. Họ là những con người bình phàm không tên tuổi, làm những chức nghiệp rất đỗi tầm thường, nhưng khi định mệnh gõ cửa ngôi nhà của họ, họ sẽ thoát thai hoán cốt và làm nên những việc kinh thiên động địa. Vô Danh là một đình trưởng của Tần. Nên nhớ Lưu Bang cũng đã từng là một đình trưởng của Tần.

Tần vương, ông ta là ai? Ông ta là hiện thân cho khát vọng nhất thống thiên hạ của Trung Hoa cổ đại. Khát vọng đó không phải chỉ của một mình Tần vương. Khát vọng đó là của Chu Văn Vương, của Ngũ bá, và trong chừng mực nào đó là của cả Khổng Tử, người chu du khắp thiên hạ để mong thực hiện cái đạo trị thiên hạ của nhà Chu mà ông cho là lý tưởng. Nhà nho chẳng có câu "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" đó sao. Với một đất nước mà lịch sử được viết bằng ngọn bút là thanh kiếm và mực là máu như Trung Hoa, cái đích cuối cùng của một kẻ nam tử hán chính là bình thiên hạ, hay chí ít là tham gia vào cái quá trình "bình thiên hạ" đó.

Và vì thế ông ta cô đơn. Cô đơn trong chính vương triều của mình, cũng như Khổng Tử trước ông ta mấy trăm năm đã cô đơn và bị ruồng rẫy ở khắp các nước chư hầu. Tàn Kiếm, Vô Danh, những tử địch của ông ta cũng là những tri kỷ duy nhất của ông ta. Hãy xem ông ta nhìn Vô Danh bằng con mắt đầy trân trọng như thế nào, nhưng cuối cùng cũng phải đành lòng ra lệnh cho tiễn thủ giương cung. Bản thân ông ta, con người quyền nghiêng trời đất ấy cũng chỉ là một kẻ nô lệ nhỏ nhoi của lý tưởng mà ông ta theo đuổi, ông ta giết Vô Danh vì cái ý chí nhất thống thiên hạ của cả một thời đại loạn ly ép buộc ông ta làm điều đó. Cái tiếng "Giết" của vô vàn văn võ trong Tần cung chính là tiếng đồng vọng của thời đại ấy. Không có một Tần vương ấy, sẽ có một Tề vương, một Sở vương như thế, đơn giản bởi họ là những thanh kiếm được hun đúc trong lò lửa chiến tranh suốt mấy trăm năm, và một khi thanh kiếm được luyện thành, nó sẽ phá tan lò lửa ấy, để đem lại một thời đại thái bình. Và cũng có thể khởi đầu cho một lò lửa mới.

Tàn Kiếm, anh ta là ai? Anh ta là hiện thân cho tinh thần kiêm ái của Trung Hoa cổ đại. Anh ta có lẽ là một môn đồ của Mặc tử, hay hiện đại hơn, một Lý Tầm Hoan của Cổ Long trong cái cách mà anh ta yêu, cách mà anh ta hy sinh, cách mà anh ta dâng hiến một cách bao dung và vô hối. Lương Triều Vỹ xưa nay vẫn vậy, cái cằm vị tha và khóe môi đầy cam chịu, rất thích hợp với hình ảnh đó. Cho dù là khi anh ta tiếp một kiếm của Phi Tuyết, khi anh ta dừng bước trước Tần vương hay khi anh ta lau đi giọt nước vương trên gò má tình nhân, thảy đều toát lên sự vị tha và si mê của một tâm hồn vĩ đại. Người ta thường nói, cảnh giới tối cao của kiếm đạo là nhân kiếm hợp nhất. Chính vì thế, khi mục đích của tay kiếm khách trong anh ta là hành thích Tần vương không còn nữa, con người này cũng như thanh kiếm của mình đã đã mất đi (hay đúng hơn là tự nguyện từ bỏ) sự sắc bén phong nhuệ, trở thành một thanh Tàn Kiếm.

Phi Tuyết, nàng ta là ai? Câu trả lời rất đỗi giản đơn. Nàng là một người đàn bà đích thực. Trong ba câu chuyện của chúng ta, Phi Tuyết đẹp nhất ở câu chuyện nào? Đương nhiên là câu chuyện màu đỏ, câu chuyện về một tình yêu tay ba, về ghen tuông, oán hận và báo thù; đó cũng chính là sân khấu thích hợp để nàng tỏa sáng. Nàng rất đỗi đàn bà, đàn bà đến cùng cực, bởi chính ở nàng mà ta nhìn thấy sự hiện diện của ái và hận, hai thứ tình cảm đáng sợ nhất, cao quý nhất và cũng đẹp đẽ nhất của nhân loại. Nàng yêu y và nàng đâm y một kiếm. Nàng hận y và nàng cũng đâm y một kiếm. Ôi, ái và hận trong lòng người phụ nữ, như hai con thú hoang vừa khiến người ta say mê lại vừa khiến người ta run sợ...

Trường Không, anh ta là ai? Anh ta cũng là một mẫu hiệp khách, nhưng khác với Vô Danh, anh ta tiêu biểu cho cái khí phái của một huyền thoại võ lâm thường thấy trong tiểu thuyết kiếm hiệp. Bản đàn anh ta nghe, bàn cờ anh ta chơi, những giọt mưa trên mái hiên nơi anh ta trú ngụ, đấy là phong thái của ẩn giả. Không thèm hạ sát chiêu với bảy kiếm khách nước Tần, đấy là phong thái của nhất đại tôn sư. Hai tay xòe rộng mời gọi Vô Danh một cách đầy khinh mạn không cần nói bằng lời, đấy là phong thái của thế ngoại cao nhân...

Anh hùng là một bộ phim không có gì mới về mặt nội dung và ý tưởng, nhưng là nơi gặp gỡ và hội tụ những gì tinh túy nhất của Trung Hoa xưa cũ qua một ống kính máy quay đẹp đến mê hồn. Có lẽ ta nên coi tác phẩm này là một cuốn bách khoa thư bằng hình ảnh đầy cô đọng, nơi Trương Nghệ Mưu muốn tôn vinh những giá trị vĩnh cửu của một nền văn minh huy hoàng trong lịch sử nhân loại. Vì vậy, muốn cảm được Anh hùng, người ta phải cảm được Trung Hoa.

04 August, 2005

Vampires, the legends that never die

I'm flesh and blood, but not human, I haven't been human for two hundred years - Louis de Pointe du Lac.

Bỗng nhiên ta nhớ tới một lời ca của Trịnh. Thuở hồng hoang đã thấy, đã xanh ngời liêu trai. Sự gặp gỡ giữa trí tưởng tượng bao la và những ám ảnh mơ hồ tiềm ẩn trông trái tim nhân loại tự ngàn xưa đã hình thành nên một thế giới của những câu chuyện truyền kỳ, nơi sợ hãi đã hòa lẫn với đam mê. Nửa phương Đông của thế giới ấy là chốn cư ngụ của các nàng hồ ly mắt biếc trong truyện Bồ Tùng Linh. Còn nửa phương Tây chính là vương quốc của những nhân vật không kém phần quyến rũ - những vampire.

Khởi đầu với Bram Stoker (Dracula) và được tiếp nối bởi Anne Rice (The Vampire Chronicles), vampire từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hứng độc đáo cho khá nhiều tác phẩm điện ảnh. Chỉ tính riêng một thập kỷ gần đây, người ta có thể kể ra trên dưới mười bộ phim về những sinh vật bất tử có ánh mắt ma quái và đôi răng nanh đầy man dại ấy. Action có Blade Trilogy, Van Helsing và Underworld; thriller có Dracula, Queen of the Damned, Embrace of the vampire, Interview with the vampire... và nhiều nữa.

Chính ta cũng không rõ niềm yêu thích này đã xuất hiện tự bao giờ. Từ khi Blade đặt lên môi Nyssa một nụ hôn say đắm trước khi thi hài nàng tan thành tro bụi dưới ánh hoàng hôn? Từ khi Lestat de Lioncourt lạnh lùng thốt lên "Với ta, em tuyệt mỹ vì em là con người trần thế. Vẻ mong manh của em. Cuộc sống ngắn ngủi của em. Trái tim em. Tất cả bỗng trở nên quý giá hơn bất cứ điều gì ta từng biết"? Hay từ khi Louis nghẹn ngào "Đã chết đi hơi thở cuối cùng, của con người từng sống trong ta"?

Vampire, điều đó đồng nghĩa với khát khao và bi kịch. Cái giá mà con người phải trả cho giấc mơ bất tử sao mà nghiệt ngã đến khôn cùng. Với Louis, đó là sự đè nén cơn thèm khát đang bừng bừng trong huyết quản. Với Claudia, đó là một thân xác rất đàn bà mà em không bao giờ có thể trở thành. Với Lestat, đó là trăm năm say ngủ để trốn tránh sự tồn tại trống rỗng và tàn héo của cô đơn.

Thật khó mà quên tiếng thở dài âm trầm của Louis, hoài vọng về buổi bình minh cuối cùng trong đời người, trước khi vĩnh viễn trở thành một phần của bóng tối vô biên, trước khi nhận ra rằng mình đã đi tìm sự giải thoát khỏi nỗi đau phải sống để dấn thân vào một nỗi đau khác - nỗi đau không thể chết. "Bất tử, thoạt đầu nghe thì rất hay, cho tới khi ngươi nhận ra rằng ngươi sẽ phải tận hưởng nó một mình". Khi xưa, một lần ta nói vui với em rằng "Đêm là người tình bất tử của đơn côi". Trùng hợp làm sao, cái cảm nhận nguyên sơ ta rút ra từ những ngày tháng bên em, cuồng điên và dại dột...

Thật khó mà quên ánh mắt ngạo mạn cực cùng của Lestat, dù đó là Lestat của Stuart - ngang ngược đầy hoang dại hay Lestat của Tom - trào phúng mà lãnh khốc. Lestat tên học trò của Marius Romanus, bạo liệt và nổi loạn, sẵn sàng trở thành kẻ thù của đồng loại chỉ để thỏa mãn cái tôi, bùng nổ và rực cháy, để được bước đi không run sợ giữa cuộc đời. Lestat người thầy của Louis, đức Chúa tự phong, tay quý tộc tự tin tuyệt đối vào ma lực của bản thân mình "No one could resist me, not even you, Louis". Lestat de Lioncourt có lẽ là nhân vật mà ta yêu thích nhất, bởi y là gã lữ hành cô độc đã vượt ra ngoài mọi khuôn khổ, bị ruồng bỏ giữa cả hai thế giới. Một tính cách như Armand từng nói "knew him well enough not to mourn his passing"...

Điều khiến cho những vampire trở nên quyến rũ một cách đầy mâu thuẫn, không phải là một xác thân bất diệt, mà chính là một trái tim tuy không còn đập nhịp đập của trần gian, nhưng vẫn ngập tràn tình cảm, tưởng như bình dị nhưng lại rất đỗi khác thường và khao khát yêu thương. Đó là tình phụ tử của Blade với Whistler; đó là tình thầy trò của Marius với Lestat, đó là sự gắn bó và thương yêu kỳ quái mà ta khó lòng định nghĩa của Claudia dành cho Louis. Và hơn hết, đó là tình yêu đầy oan nghiệt của Dracula với Mina.

Biết không em, một trái tim kiêu ngạo và đơn côi giữa màn đêm vĩnh cửu, đấy chính là một chút gì đồng điệu ta tìm thấy trong những sinh linh lạc loài ấy...

20 July, 2005

Đại giang đông khứ

Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu


Trường Giang! Trên bình nguyên Hoa Hạ có một dòng đại giang được đặt tên như vậy, nhưng đó không phải là con sông Trường Giang duy nhất trong lịch sử Trung Hoa. Hai ngàn năm trăm năm trước, đã có một Trường Giang khác cũng bắt đầu tuôn chảy… Nơi đầu nguồn của dòng sông ấy, có đôi chim thư cưu liền cánh cùng bay, có bờ cỏ kiêm gia xanh ngắt một màu, có nàng Trang Khương với sắc đẹp mê hồn… nơi đầu nguồn đó… có tên gọi “Kinh Thi”. Vào cái thuở ban đầu nguyên sơ ấy, dòng nước xanh nhẹ nhàng uốn lượn dưới tán rừng Ly Tao, khe khẽ hát lên những khúc Sở từ ngập tràn phong vị phương Nam... mơ màng và say đắm. Nhưng... rồi cũng đến lúc cõi trời đất nổi cơn gió bụi, và người ta đã vô tình lãng quên rằng trên đời này có một Trường Giang như thế…

…Bảy trăm năm đã trôi qua! Bảy trăm năm, một quãng thời gian quá dài đối với đời người… nhưng chỉ là thời niên thiếu đối với con nước êm đềm đang vươn mình cuộn sóng tới biển Đông. Giờ đây dòng sông đã tìm được cho mình một vị nữ thần, một khuôn mặt mỹ nhân ánh sắc hồng nắng sớm mà Tào Tử Kiến tôn vinh với hai tiếng “Lạc thần”. Từ đó, cỏ cây bắt đầu nở rộ khắp đôi bờ, điểm trang cho dải lụa vàng mềm mại kia biết bao kỳ trân dị bảo… những món đồ trang sức đơn sơ mà diễm lệ vô cùng. Này đây thấp thoáng sắc trắng thanh tao của màu hoa cúc, dưới tán liễu xanh mơ lung linh ánh nến huyền ảo của Ngọc Đài, và kia xa xa trong gió chơi vơi khúc u ca của rừng trúc thoáng men nồng…

…Trường Giang nay đã tròn ngàn tuổi, độ tuổi trưởng thành đầy khát khao và căng tràn sức sống. Một dòng chảy Phong Tao xưa giờ đã hoá thành trăm ngàn con sóng vạn sắc muôn màu, khi âm vang bi tráng, lúc uyển chuyển dịu dàng; chợt hào khí xông mây, lại mơ màng thủ thỉ; đương vui cười hớn hở, bỗng nuối tiếc u hoài… Hãy nghiêng đầu lắng nghe những âm thanh của đại giang hùng vĩ, bạn sẽ cảm thấy như bên tai mình đang vang tiếng phượng hoàng cao vút trên cửu thiên. Hãy nhìn qua Tây hiên tuyết trắng, trong mắt bạn sẽ phản chiếu hình bóng chiếc thuyền con neo đậu trong một mối tình quê da diết đến se lòng. Hãy thả mình theo dòng nước lững lờ, có thể bạn sẽ được nghe những bài kinh hiền hoà từ ái của chốn Thiền môn đang chế ngự độc long… nhưng biết đâu lại là tiếng Tỳ bà oán hờn chua xót vương vấn trong khóm sậy ven sông… Và sau chót, hãy ngước mắt lên nhìn vũ trụ bao la và đón nhận cái rùng mình ớn lạnh của không gian… khi đá nát non tan, trời rung đất chuyển và mưa thu ngưng đọng cõi vô thường…

Trừu đao đoạn thuỷ, thuỷ cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu


Gió cứ thổi, nước cứ trôi… và thời gian thì chảy mãi đến vô cùng… Ba trăm năm của những huy hoàng tráng lệ chỉ còn là quá khứ. Tuổi hoa niên nay đã đi mãi không về, dòng sông đang lặng lẽ chuyển mình theo khúc quanh của những âm trầm hoài niệm. Đó đây trên mặt nước còn ẩn hiện sắc hồng huyết đỏ, và reo vang tiếng vó ngựa quay cuồng trên dãy núi Hạ Lan… nhưng đó chỉ là những phút bừng sôi thoáng chốc trong suốt hai thế kỷ tê tái đến se lòng. Biết bao người đã đứng bên bờ sông vắng, ngậm ngùi tưởng nhớ về những bóng giai nhân trên đài Đồng Tước, về cung đàn điêu luyện của Mỹ Chu lang… để thả trôi theo con sóng vô tình những đoá hoa tàn đẫm nước mắt tương tư… để ước mong một phút tương phùng trên đồi vắng, bên gốc thông già và dưới ánh trăng mơ…

Như vậy đấy… tự ngàn xưa dòng Trường Giang bí ẩn và quyến rũ của Cổ thi đã hoà vào trong biển cả văn chương Á Đông không bờ không bến. Sông lớn đã về đông, nhưng không hề đào tận những nhân vật phong lưu muôn thuở… mà sản sinh và lưu danh biết bao thi nhân văn tài trác tuyệt, bất hủ với ngàn đời… Nhắc đến cổ thi, đôi khi con người lầm tưởng như đang đối diện với một điều gì đó xa vời lắm, cao sang lắm… Nhưng không! Khi ta theo cánh buồm trên sóng biếc phiêu bồng, đôi khi chợt vô tình nhận thấy một cánh bèo của dòng nước quê hương, thoáng thấy vị ngọt ngào ở cửa sông cát vắng… Cổ thi xưa cũng vậy, sự gần gũi ngàn năm của chúng ta với nền văn học Trung Hoa đã khiến những dòng thơ trở thành những giọt mưa nguồn êm dịu thấm sâu vào lòng đất... mà những khi vô tình ta chẳng thể nhận ra… Một lời nói bâng quơ nơi góc quán cô liêu của người viễn khách: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, chợt gợi cho ai nhớ đến tâm tình Đỗ Phủ... Đôi câu Kiều “Dù cho sông cạn đá mòn. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”... mỗi khi ngân lên lại khiến lòng người bồi hồi rung động với Nghĩa Sơn... Biết chăng ai, trong gió lộng Tây hồ hôm đó, khi bạn bè nâng chén vui cười, khe khẽ ngâm “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch… Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh”, thì khi ấy... trên trời cao, Trích Tiên đang lắng nghe và cất tiếng cười ung dung tiêu sái.

Hỡi người lữ hành xa lạ, mời bạn hãy cùng tôi tới thăm dòng Trường Giang kiêu sa mà thuần phác ấy, để cảm nhận mối tình xa xôi mà gần gũi... tình trong giây lát nay thành thiên thu mà dòng sông - cổ thi đã mang đến cho tôi, và biết đâu… cho cả bạn. Hãy theo thi nhân tới thăm gác Đằng vương, lầu Hoàng Hạc, dừng chân nơi quán Trúc Lý, bến Tầm Dương, hãy ngao du chốn Tam đảo Ngũ hồ cùng tao khách… Không gian ngàn xưa của thi ca đang yêu kiều chờ đón người thơ…

19 July, 2005

36 Quai de Orfèvres

Hôm nay buồn tình xem một bộ phim. Phim Pháp.

Hồi còn đi học, tôi hay đọc truyện trinh thám. Ngoài Sherlock Holmes quen thuộc, những nhân vật mà tôi ưa thích còn có Hercule Poirot, Ms. Marple của A. Christie và Maigret của Simenon. Trong số họ, ba người là thám tử tư. Duy nhất Maigret là một thanh tra cảnh sát.

Có lẽ Maigret chính là con người "thật" nhất và "đời" nhất trong số họ. Ba nhân vật còn lại đều giống nhau ở một điểm: tài năng trác tuyệt đi cùng với sự cô đơn. Phải chăng cái chức nghiệp của cuộc đời đã buộc họ phải cô đơn. Holmes chỉ có một mình, Poirot cũng vậy, và Ms. Marple cũng thế, mấy chục tuổi đầu vẫn được gọi bằng "cô".

Chỉ có Maigret là có một gia đình, dù là một gia đình không hoàn hảo (ông không có con). Tôi nhớ những giây phút Simenon tả Maigret và người vợ, những chăm chút nhỏ nhoi của bà dành cho ông lúc trời mưa nắng thất thường, nó thật là ôn nhu da diết. Chất tình cảm trong truyện của Simenon vì thế mà khác hẳn, và cũng hay hơn hẳn Doyle và Christie. Có lẽ vì Simenon là người Pháp chăng? Một thứ văn phong tinh tế, được trau chuốt tới từng chi tiết và đi sâu vào nội tâm. Giống như Maupassant hay Zola vậy?

Maigret là thanh tra cảnh sát của Paris, và vì thế ông làm việc ở Quai des Orfèvres. Mấy tiếng "Quai des Orfèvres" nó dường như đã trở thành một huyền thoại, sánh ngang với Scotland Yard, với Pinkerton Agency, nghĩa là mang đậm màu sắc cổ điển và tinh tế chứ không thô bạo máu lửa như kiểu LAPD, NYPD hay FBI. Bộ phim hôm nay mà tôi xem cũng vậy. 36 Quai des Orfèvres. Những mảnh đời cảnh sát. Cái tên ban đầu nó làm tôi mường tượng đến Maigret. Olivier Marchal trước khi làm diễn viên và đạo diễn, đã từng là một nhân viên cảnh sát, và đây cũng không phải bộ phim đầu tiên của ông về cảnh sát. Có lẽ vì thế mà 36 Quai des Orfèvres mang một phong cách rất riêng.

Bộ phim mở đầu bằng cảnh bữa tiệc chia tay một thanh tra - Eddy Valence. Món quà tặng thật là nghịch ngợm và dễ thương. Cảnh đám tang của Valence. Những giọt nước mắt của Titi. Nét mặt lạnh lùng đầy hy sinh và cam chịu của Vrink. Cái tình của những con người luôn sống cận kề cái chết trong thời bình, nó làm tôi cảm động.

Vai chính diện là của Daniel Auteuil, best actor của Cannes 96, và khá nhiều giải + đề cử César. Một tay cảnh sát đặc biệt. Hồi xưa xem Bao Thanh Thiên, tôi rất không thích ông ta ở chỗ thiết diện vô tư đến mức tuyệt tình. Chính vì thế mà tôi càng "chịu" cái phong cách của Léo Vrink. Chơi bời gần gũi với một tú bà về hưu, sẵn sàng vào tù để bảo vệ người chỉ điểm cho mình. Thủ đoạn như một tay giang hồ chính hiệu với mục đích là duy trì công lý, thứ công lý của riêng ông ta, một thứ công lý đầy nguyên thủy và rất nặng nhân tình. Cái "tà" trong một con người tưởng như phải rất "chính" ấy, nó làm tôi yêu thích.

Ít khi thấy Depardieu đóng vai phản diện. Depardieu làm tôi khóc khi xem Cyrano de Bergerac, làm tôi cười khi xem My father the Hero, và nhiều hơn thế nữa... Dạo này xem nhiều vai cảnh sát tha hóa quá, gần nhất là Duvall trong Assault on Precinct 13 (Gabriel Byrne), vậy mà vẫn phải rùng mình. Denis Klein là một tâm hồn bị bóp nghẹt bởi sự ghen tị, khát vọng quyền lực và có lẽ cả oán hận trong tình yêu. Đáng sợ làm sao, khi một viên cảnh sát không hề có sự phân biệt trong cách đối xử với đồng nghiệp và với tội phạm: không dung tha. Tai nạn của Camile, đó là sự trả thù Klein dành cho Vrink, hay giản đơn là sự hủy diệt một người đàn bà vĩnh viễn không bao giờ là của ông ta? Cái độc địa của Klein, nó làm tôi ghê sợ.

Những vai phụ khá dễ thương. Nhất là Titi, dám yêu dám hận cho đến những giây cuối cùng của cuộc đời mình. Nếu có một điều làm tôi cảm thấy chua chát nhất trong bộ phim này, đó sẽ không phải là cái chết của Eddy, không phải là cái chết của Camile, mà chính là số phận của Titi. Cũng phải thôi, dòng chảy khá bi kịch của điện ảnh Pháp thường là như thế.

Cũng may là kết cục của bộ phim phần nào làm tôi nhẹ nhõm, dù nó có vẻ hơi sắp đặt. Nhưng dẫu sao nó cũng đã thể hiện được một niềm tin, niềm tin vào sự chiến thắng cuối cùng của cái Tốt.


July 18 2005

18 July, 2005

Trường đoản cú

Ơn em thơ dại từ trời
Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi… (*)


Trường đoản cú (1). Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường?

Cái tên này phải chăng tự nó đã nói lên rất nhiều? Trong suốt chiều dài hơn ba ngàn năm lịch sử, Từ có lẽ không phải là đứa con ưu tú nhất, nhưng lại là đứa con kỳ lạ nhất của văn học cổ điển Trung Hoa. Lý Thương Ẩn từng có một ý thơ hình như đã trở thành chân lý “Tịch dương vô hạn hảo, chỉ thị cận hoàng hôn” (2). Cái đẹp hoàn mỹ đến tiêu hồn của ánh tà huy chỉ xuất hiện giữa buổi tịch dương của một ngày sắp tắt. Và Từ đã ra đời chính trong một buổi hoàng hôn như thế - buổi hoàng hôn của một thời đại điêu tàn.

Tây phong tàn chiếu
Hán gia lăng khuyết
(3)

Khi Thanh Liên trước tác Ức Tần Nga, có lẽ ông không hề nghĩ rằng khúc tiểu lệnh này sẽ là sự khởi đầu cho một dòng chảy u hoài kéo dài suốt mười hai thế kỷ… Cái không gian xao xác cô liêu của “Hàm Dương cổ đạo âm trần tuyệt” (4) đã trở thành nơi trú ngụ vĩnh hằng cho nỗi lòng Từ nhân qua rất nhiều thế hệ. “Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt” (5) của Liễu Vĩnh ba trăm năm sau, chẳng phải chính là dư ba nỗi buồn Lý Bạch ngày xưa đó sao?

Những điệu tiểu từ đầu tiên xuất hiện khi mà nhà Đường đã xa rồi cái thời thịnh trị, nhưng cũng chưa hẳn đã đến buổi tiêu vong. Nếu ví Từ như một người con gái thì thời đại của Thanh Liên, Lạc Thiên hay Phi Khanh đang là lúc cô bé thơ ngây mới ở tuổi biết buồn (6).

Phải đợi đến khi ngôi Tử Vi đế tinh của Từ - Nam Đường Hậu chủ Lý Dực bước lên tao đàn, loại hình nghệ thuật này mới hoàn toàn thoát khỏi cái bóng của hai chữ thi dư, hoá thân thành một thiếu nữ trong hoa (7) yêu kiều diễm lệ. Định mệnh với những tao loạn vô biên của thời Ngũ đại đã khiến cho bờ mi nàng luôn thấp thoáng nét buồn mênh mang sầu hoài thương nữ…

Từ của Hậu chủ là tiếng khóc thê lương của loài chim đỗ vũ. Từ của Trung chủ là tâm sự bế tắc của kẻ ở ngôi cao nhưng mang tâm hồn ẩn sĩ. Từ của Vi Trang là sự run rẩy trước biết bao vật đổi sao dời. Từ của Lộc Kiền Ỷ là nỗi hờn vong quốc trong tim kẻ cựu thần. Từ của Cố Quýnh là nỗi hoài vọng về những ngày hoa lệ một đi không bao giờ trở lại… Mỗi Từ nhân ấy, mỗi con người ấy, họ mang trong lòng những tâm sự riêng, nhưng âm hưởng bi ai trong Từ của họ thì đã hoà quyện vào nhau, âm vang như tiếng thở dài của cả một thời ly loạn…

Sự biến Trần Kiều xảy ra, đặt dấu chấm hết cho nửa thế kỷ hoang tàn, hứa hẹn một thời kỳ thịnh trị sẽ đến với đất Trung Nguyên. Mấy ai ngờ rằng ngày Triệu Khuông Dẫn khoác long bào lên ngôi hoàng đế cuối cùng lại là sự mở đầu cho một triều đại vừa huy hoàng vừa ngập tràn bi kịch và mâu thuẫn.

Không huy hoàng sao được khi dưới thời Tống, từ văn học, lịch sử, triết học, chính trị cho tới các môn nghệ thuật đều có những danh nhân kiệt xuất. Sáu trong tám đại văn gia là người thời Tống. Sử gia duy nhất khả dĩ sánh được với Tư Mã Thiên, đồng thời cùng họ với ông – Tư Mã Quang, là người thời Tống. Vương An Thạch, nhân vật nổi danh với biến pháp cải cách đầy dũng cảm và táo bạo, cũng là người thời Tống. Không phải ngẫu nhiên mà triều đại của Tống Huy Tông lại là lúc thư pháp và hội hoạ đạt tới đỉnh cao với hàng trăm nghệ sĩ tài hoa thuộc nhiều tông phái…

Không bi kịch sao được khi chính vào thời kỳ huy hoàng ấy, người Hán lại hơn lúc nào hết ý thức được sự cay đắng của nhược tiểu và thất bại. Những thành tựu kia dù lớn lao đến mấy, cũng chẳng thể xoa dịu được nỗi nhục nhã ê chề khi Cao Tông dâng biểu xưng thần với vua Kim, khi Huy Tông và Khâm Tông bị cầm tù, khi một nửa giang san rơi vào tay dị tộc.

Không mâu thuẫn sao được khi giữa lúc tư tưởng xã hội bị ràng buộc và xiềng xích bởi những quy phạm nghiêm ngặt đến mức khắt khe, thậm chí bất cận nhân tình của Trình Hạo - Trình Di, lại là lúc tâm hồn lãng mạn công nhiên cất lên tiếng nói phóng túng, khoáng đạt và phá cách đến không ngờ.

Từ đã trưởng thành trong một môi trường như thế - đẹp và buồn. Đẹp muôn hình muôn vẻ, buồn muôn sắc muôn màu. Có lẽ vì thế nên bóng hình thiếu nữ năm nào đã không còn là hoá thân duy nhất của Từ như ngày xưa nữa. Nhân sinh nhất trường tuý, cơn say ấy có khi là người thiếu phụ cô đơn nhấp giọt u hoài trong ánh hoàng hôn , có khi là gã lãng tử dưới trăng nâng chén hỏi trời xanh , có khi là nước mắt tương tư của người lính già bạc đầu nơi biên tái … Những hình hài đa dạng ấy của Từ, kể làm sao cho xiết… [8]

Dưới thời Đường, sự ràng buộc giữa con người thơ ca và con người chính trị có đôi phần lỏng lẻo. Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, ba đại diện cho tiên, thánh và phật trong thơ đều là khách lãng du không gắn bó với công danh, hay nói đúng hơn, không có duyên với công danh. Những cá biệt như Hạ Tri Chương, Trương Cửu Linh cao cao tại thượng tuy có nhưng không nhiều (9). Người ta ít thấy bóng dáng chính trị hiện hữu trong phong cách sáng tác của họ, và trên thực tế họ cũng không phải là những tượng đài của một thời đại thi ca. Sang thời Tống thì khác, thi nhân – chính khách hai thái cực đó hình như đã dung hoà làm một. Vương An Thạch, Tô Thức, Âu Dương Tu, Phạm Trọng Yêm, Tân Khí Tật, Nhạc Phi, hết thảy bọn họ vừa là danh gia vừa là danh thần. Phải chăng điều này đã khiến cho khí chất Tống thi phần nào khô khan và đầy triết lý, “tải đạo” nhiều hơn là “tuý khởi ngôn chí” như Lý Bạch năm nào? Sự lãng mạn của văn nhân đã âm thầm từ bỏ Thơ và tìm đến Từ như một không gian nằm ngoài hiện thực chính trị. Có thể nói rằng Lãng Mạn đã chọn Từ làm bến đỗ cho những cảm xúc riêng tư bất tận của tâm hồn thi sĩ...

Trong lịch sử Trung Hoa, thời hoàng kim của mỗi loại hình văn chương cổ điển luôn chỉ đến duy nhất một lần, và Từ cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi nhà Tống gục ngã dưới vó ngựa Bắc phương, Từ đã gieo mình vào quên lãng bằng một giấc ngủ triền miên để lẩn tránh thực tại tang thương. Chứng kiến sự thống trị của ba vương triều ngoại tộc – Liêu, Kim và Nguyên trên đất Thần Châu , nhiều danh sĩ đành ngậm ngùi chua xót chôn vùi biết bao hoài bão của mình dưới nấm mồ Ẩn Dật; và hình như Lãng Mạn đã được chôn theo như một món đồ tuỳ táng. Thế nhưng, giữa không gian bao la và u tối ấy vẫn thấp thoáng vài ngôi sao lấp lánh... và hơn thế nữa, còn có một vệt lưu tinh!

“Khi lưu tinh xuất hiện thì ngay cả những vì tinh tú được coi là vĩnh hằng bất biến cũng bị lu mờ” (10). Ánh sao băng ấy chính là Mô ngư nhi của Nguyên Hiếu Vấn...

Sau lần rực sáng hiếm hoi ấy, Từ lại lạnh lùng lưu lãng giữa thinh không trong nhiều thế kỷ. Tài hoa của mình đôi phu phụ Dương Thận – Hoàng Nga không đủ sức níu kéo cái linh khí u uyên đang chìm dần vào quá khứ, dù ngòi bút của Dụng Tu từng làm cuộn sóng cả Trường Giang. Từ đã phải đợi thêm gần hai trăm năm để tìm lại phần nào nét hào hoa ngày cũ với Dương Tiễn, Chiết Tây và Thường Châu ba tông phái của Thanh triều. Thế nhưng sự phục hưng muộn màng ấy, xét cho cùng cũng chỉ là cái bóng nhạt nhoà của Tống Từ vô hạn phong quang thuở trước... Có lẽ Nạp Lan Dung Nhược - người kế vị xứng đáng, đương nhiên và duy nhất của Nam Đường Hậu chủ - chính là Từ nhân cuối cùng đã hồi sinh nàng thiếu nữ trong hoa một lần sau chót, “một lần cho vĩnh biệt, một lần thôi mất nhau”...

Không uy nghi và đường bệ như Đường thi, được hết thảy nhân gian nâng niu và ca ngợi đến tột cùng, Từ luôn lặng lẽ giấu mình trong cơn say chất ngất dưới bóng hoàng hoa. Nét phong lưu kiều mị mê hồn ấy dường như chỉ hiển lộ dưới mắt kẻ hữu duyên trong một giấc mộng giai kỳ ngắn ngủi đến vô tình... Hãy một lần thử tìm đến với Từ, để biết đâu, giữa trùng trùng duyên khởi, bạn sẽ tìm được cho mình một tình yêu say đắm, như người viết đã từng yêu...


Giáp Thân niên, Mạnh đông nguyệt, Giáng Vân hiên Lam Thiên tuý tác
_____________________

Chú thích:

(*) Du Tử Lê.

(1) Đặc trưng của Từ là kết cấu gồm những câu dài ngắn không đều nhau, bởi vậy nên Từ còn có một tên gọi khác là “trường đoản cú”.

(2) 夕陽無限好、只是近黃昏 - Đăng Nhạc Du nguyên (登樂遊原), Lý Thương Ẩn.
(3) 西風殘照、漢家陵闕 - Ức Tần Nga (憶秦娥), Lý Bạch.
(4) 咸陽古道音塵絕 - Ức Tần Nga (憶秦娥), Lý Bạch.
(5) 楊柳岸、曉風殘月 - Vũ lâm linh (雨霖鈴), Liễu Vĩnh.

(6) Thanh Liên là hiệu của Lý Bạch, Lạc Thiên là tự của Bạch Cư Dị, Phi Khanh là tự của Ôn Đình Quân, ba người này đều là những Từ nhân sơ khởi thời Đường.

(7) Hoa gian – tên một Từ tập và Từ phái chủ lưu của thời Ngũ đại.

[8] Túy hoa âm, Lý Thanh Chiếu: Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu… Liêm quyển tây phong, nhân tỉ hoàng hoa sấu (xem nguyên văn chữ Hán toàn bài ở phần giới thiệu Từ điệu).

Thuỷ điệu ca đầu, Tô Thức: Minh nguyệt kỷ thời hữu, bả tửu vấn thanh thiên (xem nguyên văn chữ Hán toàn bài ở phần giới thiệu Từ điệu).

Tô mạc già, Phạm Trọng Yêm: Tửu nhập sầu trường, hoá tác tương tư lệ (xem nguyên văn chữ Hán toàn bài ở phần giới thiệu Từ điệu).

(9) Hạ Tri Chương làm Lễ bộ thị lang, Trương Cửu Linh làm Tể tướng, đều là danh thần đời Khai Nguyên nhà Đường.

(10) Lưu tinh, Hồ điệp, Kiếm – Cổ Long.


Jan 25 2005

17 July, 2005

Kinh Kha thích Tần vương

Quyền lực tuyệt đối và Sa đoạ tuyệt đối

Có lẽ nên nói một chút về nguyên nhân khiến tôi viết cái review này. Ngẫm ra kể cũng buồn cười. DVD của bộ phim này tôi mua đã khá lâu rồi, nhưng vì nhiều lý do mà chưa bao giờ có dịp xem cho trọn vẹn. Từ vài tuần nay, đài Hà Tây chiếu Cỗ máy thời gian, một series phim truyền hình được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết dã sử võ hiệp của Hoàng Dị nhan đề Tầm Tần ký. Tôi không thích bộ phim này cho lắm, nhưng nó lại là lý do khiến tôi lang thang đi tìm nguyên tác đọc chơi, vừa đúng lúc bản scan của bộ truyện này được đưa lên mạng - âu cũng là một cái duyên.

Đã lâu không đọc một bộ tiểu thuyết trường thiên nào, chính bản thân tôi cũng phải ngạc nhiên khi hơn 1600 trang Tầm Tần ký lại cuốn hút mình đến vậy. Câu chuyện giả tưởng này kể về Hạng Thiếu Long, một quân nhân của thế kỷ XXI bị máy thời gian đưa về quá khứ. Nhờ đó, anh ta được gặp gỡ, được yêu, được kết làm bằng hữu và trở thành tử địch của những nhân vật huyền thoại như Triệu Cơ, Vương Tiễn, Lý Mục, Lã Bất Vi... và cuối cùng trở thành người đóng vai trò quyết định đối với số phận của Trung Hoa sau hơn năm trăm năm chinh chiến cực kỳ tàn khốc. Bầu không khí hào hùng và khích liệt của bảy nước phân tranh trong Tầm Tần ký có lẽ đã giúp tôi tìm lại đôi chút hứng thú với một bi kịch lịch sử dường như đã trở thành bất hủ: "Kinh Kha thích Tần vương".
_________________________

1) Diễn viên

Điều đầu tiên nên làm bao giờ cũng là quảng cáo một chút về diễn viên. Những gương mặt hội tụ trong Kinh Kha thích Tần vương đều là những cái tên rất rất quen thuộc với khán giả Việt Nam yêu thích điện ảnh Trung Hoa. Vai nữ chính Triệu Cơ do Củng Lợi đảm trách, có lẽ không cần phải nói gì nhiều. Người đóng vai Doanh Chính là một gương mặt khá độc đáo - Lý Tuyết Kiện, từng thủ vai Tống Giang trong Thuỷ Hử. Trần Khải Ca tự mình đóng Lã Bất Vi, và thực tình mà nói ông diễn khá thành công. Tôi từng băn khoăn mãi về cái bĩu môi đầy khinh thị và ngạo nghễ của Kinh Kha mà không nhớ nổi đã gặp người này ở đâu, để mãi sau này mới chợt nhận ra anh là Trương Phong Nghị, người sánh vai với Trương Quốc Vinh trong Bá vương biệt Cơ.

Có bốn diễn viên, mà sự xuất hiện của họ sẽ đem lại cho chúng ta những bất ngờ thú vị. Thứ nhất là Châu Tấn, năm 99 cô còn rất trẻ, rất ngây thơ, và phải nói thật là cũng chưa nhiều quyến rũ, đóng vai cô con gái mù của người thợ rèn kiếm. Thứ hai là Đinh Hải Phong - Võ Tòng trong Thuỷ hử, thủ vai Tần Vũ Dương. Thứ ba là Triệu Bản Sơn (Happy Time - Trương Nghệ Mưu) trong vai Cao Tiệm Ly. Và cuối cùng là Vương Chí Văn - vị thầy giáo dạy nhạc trong Together (Cây vĩ cầm vàng), nhập vai Lao Ái.

2) Cốt truyện

Như thường lệ, một bi kịch chỉ đích thực là bi kịch khi có bóng hình người phụ nữ. Triệu Cơ xuất hiện với tư cách là người bạn thanh mai trúc mã của Tần vương những ngày còn lưu lạc làm con tin ở Triệu Quốc, và nàng đã theo Doanh Chính về Tần. Nàng yêu người tình nhân thuở thiếu thời hết mực và sẵn lòng hy sinh để thành toàn giấc mộng nhất thống thiên hạ của Doanh Chính - mà trong mắt nàng chính là vị quân vương lý tưởng của Trung Hoa thống nhất. Triệu Cơ dùng khổ nhục kế rời Tần sang Yên, theo thái tử Đan tìm người hành thích Tần vương. Một khi thích khách vào Tần, Doanh Chính được chuẩn bị trước sẽ thoát khỏi âm mưu ám sát, đồng thời danh chính ngôn thuận xuất binh tiêu diệt nước Yên, mở đầu chiến dịch thôn tính năm nước. Những ngày ở Yên, nàng gặp Kinh Kha và phần nào phát sinh hảo cảm với gã chức nghiệp sát thủ đang ăn năn vì tội lỗi của mình trong quá khứ, mặc dù vậy lòng nàng vẫn hướng về Doanh Chính. Nhưng ảo tưởng của Triệu Cơ đã hoàn toàn tan vỡ khi tận mắt chứng kiến y tận diệt Hàm Đan quê hương nàng. Yêu thương biến thành thù hận, Triệu Cơ gửi gắm tâm nguyện của mình cho Kinh Kha; và Kinh Kha đã ra đi, không phải vì thái tử Đan, mà vì nàng, vì thiên hạ.

3) Nhân vật

(*) Tần vương. Tôi nghĩ chắc Trần Khải Ca rất thích Tên độc tài của Charlie Chaplin. Thuỷ Hoàng đế của họ Trần không phải là một bá chủ uy phong gầm mây thét gió, mà là một người đàn ông nhỏ bé và đầy bi kịch. Và ngoài Lý Tuyết Kiện thì khó tìm được một người thứ hai xuất sắc đến vậy. Nhìn cái dáng tất tả của vua Tần vừa chạy vừa vấp ngã trên hành lang vắng lặng sau khi vừa chết hụt ở tẩm cung của Thái hậu mới thấy hết cái lẻ loi của con người này. Đoạn khởi đầu của bộ phim dường như đã hé lộ rằng chỉ khói bụi sa trường, chỉ chiến tranh sắt máu mới là nơi ông ta trở lại với chính mình.

Cả câu chuyện là sự chết dần chết mòn của "con người" trong Tần vương: ông ta ngày càng trở nên cô độc dưới cái thòng lọng của khát vọng quyền lực đang từ từ thắt chặt. Người đầu tiên lìa bỏ Doanh Chính là Yên Đan, bằng hữu một thời. Tiếp theo là Thái hậu, vì Lao Ái - đây có lẽ là đả kích lớn nhất mà Doanh Chính phải chịu đựng, và nó đã hoàn toàn làm thay đổi nhân cách của ông ta, biến con người này thành một bạo chúa thật sự. Người thứ ba là Lã Bất Vi, người-cha-không-thể-được-gọi-là-cha của Doanh Chính đáng thương. Lã Bất Vi tự tử tại Thái miếu, điều đó phủ thêm băng vào con tim chai đá và đổ thêm dầu vào tham vọng bá vương của vị hoàng đế tương lai. Thứ tư là Phàn Ư Kỳ, viên tuỳ tướng đến chết vẫn còn trung thành với Tần quốc; và sau chót là Triệu Cơ, niềm hy vọng, nguồn an ủi và chỗ dựa cuối cùng của ông ta. Lưỡi truỷ thủ Doanh Chính trao cho nàng lúc ra đi như kỷ vật của tình yêu thì giờ đây trở về như tín sứ của báo thù. Đoạn tuyệt với mẹ, không thể nhận cha, hành hình hai em, phản bội người yêu, đối đầu với bằng hữu, làm thất vọng trung thần - lục thân bất nhận có lẽ nào là cái giá phải trả để đạt thành bá nghiệp? Bộ phim kết thúc với hình ảnh Tần Thuỷ Hoàng thì thầm câu nói "Doanh Chính, ngươi có còn nhớ di ngôn nhất thống thiên hạ của liệt tổ liệt tông hay không?". Con Người đã chết, nhường chỗ cho Quyền Lực, đúng như lời Hạng Thiếu Long "quyền lực tuyệt đối sẽ khiến con người sa đoạ tuyệt đối".

(*) Kinh Kha. Motif sát thủ hoàn lương không còn là điều quá xa lạ trong điện ảnh, và xét một cách khách quan thì Trương Phong Nghị còn lâu mới vươn tới tầm của Jean Reno trong Leon the professional. Mặc dù vậy, hình tượng này đã vượt ra ngoài khuôn khổ lịch sử mà Tư Mã Thiên từng định hình trong Thích khách liệt truyện. Họ Trương thể hiện vai diễn của mình khá hay, nhưng đạt tới chỗ bất phàm thì chưa. Và công bằng mà nói đất diễn của anh cũng không rộng, bởi sự day dứt và dằn vặt trong tâm hồn Kinh Kha được Trần Khải Ca sử dụng những hồi tưởng đen-trắng để nhấn mạnh, nên bản thân diễn viên không cần thiết phải thể hiện nhiều. Tuy nhiên anh vẫn có một vài đoạn khiến tôi thực sự ấn tượng. Hình ảnh Kinh Kha khoanh tay, dựa cửa và lắng nghe Triệu Cơ thổ lộ sự thật với nụ cười mơ hồ trên môi, nó phảng phất nét gì đó vừa bao dung vừa thấu hiểu rất khó diễn tả.

Kinh Kha nhập Tần cung là một trường đoạn rất độc đáo, bởi cách hành xử của nhân vật vượt ra ngoài hình dung thường thấy. Kinh Kha đến Tần trong hoàn cảnh Tần vương đã được chuẩn bị trước, có chăng Doanh Chính chỉ không ngờ lưỡi dao kia không phải của Yên Đan mà của chính Triệu Cơ thôi, và Kinh Kha hoàn toàn biết điều đó. Để làm kẻ thù lơi lỏng đề phòng, Kinh Kha đã hoá thân thành một con người khác - một kẻ thôn dã lần đầu bước lên kim điện; nhưng ẩn tàng trong vẻ quê mùa là sự khôn ngoan và hùng khí bất phàm. Xem Kinh Kha cười phớ lớ và lon ton chạy qua cây cầu, tôi có cảm giác như đang xem già Lưu bước vào phủ Ninh - Vinh vậy. Có thể nói, Kinh Kha của Trần Khải Ca giống với Kinh Kha của Tư Mã Thiên ở chữ Dũng, nhưng đã vượt lên ở chữ Trí một cách bất ngờ.

(*) Triệu Cơ. Cũng như Trương Phong Nghị, Củng Lợi đã làm tròn vai diễn của mình, nhưng không thật sự xuất sắc. Triệu Cơ là một tâm hồn quảng đại, nàng giống một hiệp khách của Triệu quốc hơn là một thiếu nữ Triệu quốc, giống trong cách nàng yêu thương, nàng cảm thông, nàng hy sinh và nàng căm hận. Nhưng tôi thích nhất nàng ở sự ngây thơ, vì dù có vĩ đại đến mấy thì một người con gái đang yêu vẫn thật là ngây thơ hết mực. Dáng vẻ của nàng khi sắp bị đóng dấu (!!!), và cả câu nói của nàng nữa "Đừng làm bẩn quần áo của ta", thực đáng yêu biết mấy.

(*) Các nhân vật khác. Thiết nghĩ nói như vậy cũng đã là khá nhiều, nhưng cũng nên nói thêm một chút về những vai phụ. Lao Ái được hoá trang rất chuẩn, vừa có nét đàn ông (thật), vừa có nét thái giám (giả), và biểu hiện cũng rất đạt. Mặc dù vai diễn của Châu Tấn ngắn nhưng cô không khó khăn gì để tìm được sự xót xa từ phía người xem, tôi cũng phải thú thật là tiếng thét của cô gái mù khi đâm lưỡi kiếm ra đã làm tôi giật mình. Phàn Ư Kỳ là một người lính già trung thành hết mực, nhưng trước khi là một người lính, ông ta là một con người, và con người ấy đã vì Thiên Hạ mà gạt bỏ Đại Tần.

4) Tình huống

Phim Tàu thì bao giờ cũng chú trọng vào thủ pháp biểu đạt cực kỳ hàm súc, và đây có thể nói là sở trường của Trần Khải Ca. Tôi liệt kê ra vài điểm nhấn, nhưng sẽ không phân tích gì nhiều, vì khó mà nói hết bằng lời.

+ Đoạn Tần vương đang ngồi ăn ở cung Thái hậu thì thằng bé con của Lao Ái chạy vào gọi "bố ơi", có thể nói là đặc biệt kịch tính.
+ Quả bóng gỗ của Lã Bất Vi từ từ lăn về phía Doanh Chính.
+ Triệu Cơ vấp phải cái trống. Chi tiết này, theo tôi đánh giá là xuất sắc nhất trong cả bộ phim. Đạo diễn dùng các tình tiết liên tiếp nhằm mục đích "tích luỹ" cảm xúc cho khán giả trước khi cho phép nó bùng nổ, từ cảnh chú bé cầm trống trên thành, cảnh Doanh Chính nhặt cái trống, đưa cho đứa nhỏ, rồi vừa đi vừa ngơ ngẩn lắc (đến thời điểm này "vai trò" của cái trống vẫn là một bí ẩn). Phải đợi đến khi Triệu Cơ tất tả chạy vào Hàm Đan, máy quay dõi theo bước chạy, và đột nhiên một âm thanh như nảy lên từ mặt đất, và nảy lên theo nó là trái tim của người xem. Nhưng bàn tay xanh nhợt nắm chặt lấy cái trống mới là đòn đánh trí mạng! Dù chúng ta đã biết trước kết cục từ khi Doanh Chính rời Hàm Đan, nhưng không ai ngờ là câu trả lời có thể tàn nhẫn đến cực điểm như vậy.

Mặc dù vậy, bộ phim vẫn có hai điểm khiến tôi thất vọng. Thứ nhất, Cao Tiệm Ly quá mờ nhạt, lý ra vai trò của người nhạc sư này có thể nổi bật hơn và khác hơn việc chỉ xuất hiện như một anh phẫu thuật viên và đến đấy là hết. Thứ hai, cảnh chia ly trên sông Dịch quá giản đơn nếu không nói là quá chán. "Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn". Lẽ ra Dịch thủy tống biệt phải được quan tâm hơn, và phải dramatic hơn thế nhiều lắm.

Có hai điều, rất có thể một số bạn sẽ thắc mắc: (1) Có một thằng cha mặt nhợt nhạt suốt ngày gào "Doanh Chính, nhà ngươi có nhớ...", what is it for? (2) Tại sao không phải là treo cổ, không phải là đốt chết, không phải là chặt đầu, mà lại là chôn sống?

Theo tôi, đó là sự chủ định tái hiện hai chi tiết lịch sử của Trần Khải Ca. Câu Tiễn khi nằm gai nếm mật báo thù, thường sai người hầu đứng ở dọc đường đi, trỏ vào mặt mình mà nói "Câu Tiễn, mày còn nhớ cái nhục ở Cối Kê không". Với Câu Tiễn đó là ám ảnh của báo thù, còn với Doanh Chính đó là ám ảnh của khát vọng bá chủ. Còn vì sao lại là chôn sống? Đơn giản bởi đây là điều mà trước đó vài chục năm Bạch Khởi đã làm với bốn mươi vạn quân Triệu ở Trường Bình. Và đó chính là sự tinh tế của một đạo diễn bậc thầy.


Jan 16 2005

16 July, 2005

Thập diện mai phục

Nói một chút về riêng cái tiêu đề.

Sau khi đi xem bộ phim này về, có khá nhiều người chê. Chê vì thật sự không thấy hay. Chê vì thấy thằng khác cũng chê, mình mà khen thì thành dở hơi. Chê để chứng tỏ một con mắt thẩm mỹ khắt khe. Thôi thì đủ kiểu! Có lẽ người ta vẫn còn bị ám ảnh bởi Anh hùng quá nhiều, nên đa phần phán một câu xanh rờn "kém xa Anh hùng về mọi mặt", cá biệt có người còn nói rằng nó kém xa cả Ngọa hổ tàng long - kể cũng hơi buồn cười. Anh hùng, đây là một đề tài gợi nhiều hứng thú - không phải ngẫu nhiên mà những topic luận về Anh hùng thường là rất hot ở Vietkiem, cũng không phải ngẫu nhiên mà những anh hùng ca như Iliad, Odyssey hay Mahabharata sống mãi đến này ngày nay. Có lẽ cũng vì vậy mà người ta "cảm" Anh hùng dễ hơn.

Thất vọng có lẽ cũng từ cái tiêu đề phim mà ra, có phải ai đi xem cũng nghĩ là được thưởng thức những cảnh hoành tráng binh lính ngút ngàn nhưng thực tế thì... đi xem thì biết...


Đây là một trong những lời phê bình điển hình mà chúng ta có thể gặp ở bất cứ đâu khi người ta nhắc đến bộ phim này.

Bởi vậy có lẽ nên nói thẳng ngay từ câu đầu tiên: Ai đi xem Thập diện mai phục với tâm lý chuẩn bị thưởng thức một Troy mang màu sắc phương Đông, nghĩa là biển kiếm rừng đao và âm mưu kinh thiên động địa thì quá sai lầm và ấu trĩ.

Trong một hồi nào đó của Lộc đỉnh ký, Vi Tiểu Bảo từng nhắc tên một trong những vở kinh kịch nổi danh của Trung Quốc có nhan đề "Thập diện mai phục, Hạng Vũ biệt Ngu Cơ". Từ cái tiêu đề này có thể dễ dàng nhận thấy tâm điểm của vở kịch không nằm trong cái hào hùng của trận đánh trên Ô giang, mà lại là cuộc chia ly nhuốm màu tang tóc của Tây Sở bá vương và người ái thiếp. Bởi thế ai trông chờ Thập diện mai phục là hoành tráng, là âm mưu, là máu lửa, tất thảy đều sai lầm. Bộ phim có âm mưu đấy, nhưng cái âm mưu của một Phi đao môn nhỏ bé có là gì so với con ngựa gỗ truyền kỳ của quân Hy Lạp. Bộ phim có đao kiếm đấy, nhưng cái bóng phi đao ấy dù có quỷ dị đi nữa cũng không sánh được với ngọn lao của Achilles về vẻ thần thánh và siêu nhiên đầy sức mạnh. Những cái đó, họ Trương đơn giản dùng nó như một thứ decors cho ý tưởng của mình, vậy thôi.

Thâp diện mai phục, bốn chữ này đồng nghĩa với "bi kịch tình yêu không lối thoát" - a dilemma of love. Cái chết của Tiểu Muội từ góc nhìn nào đó chính là sự lặp lại cái chết của Ngu Cơ. Ngàn năm trước, có một cô gái từng "đến bên chàng, cao tuốt lưỡi gươm xanh, và tự ải" với hy vọng rằng người mình yêu thương sẽ mãi ngẩng cao đầu. Ngàn năm sau, lại có một người con gái rút trong tim mình ngọn phi đao để bảo trì sinh mạng của tình lang với tâm niệm rằng "chàng phải sống"...


Oct 26 2004

15 July, 2005

Thần thoại - Tình thoại

神話情話
曲名:神話 情話
唱:周華健 齊豫
詞:林夕
曲:周華健
編曲:洪敬堯

合:愛是愉快是難過是陶醉是情緒
或在日後視作傳奇
愛是盟約是習慣是時間是白髮
也叫你我乍驚乍喜
完全遺忘自己
竟可相許生與死
來日誰來問起
天高風急雙雙遠飛

愛是微笑是狂笑是傻笑是玩笑
或是為著害怕寂寥
愛是何價是何故在何世又何以
對這世界雪中送火

誰還祈求什麼
可歌可泣的結果
誰能承受後果
翻天覆海不枉最初

呀呀……
有你有我雪中送火

男:愛在迷迷糊糊 磐古初開便開始
這浪浪漫漫舊故事

女:愛在朦朦朧朧前生今生和他生
怕錯過了也不會知

男:跌落茫茫紅塵南北西東亦相依
怕獨自活著沒意義

女:愛是來來回回情絲一絲又一絲

合:至你與我至生永不闊別時

Hợp: Ái thị du khoái, thị nan quá, thị đào tuý, thị tình tự
Hoặc tại nhật hậu thị tác truyền kỳ
Ái thị minh ước, thị tập quán, thị thời gian, thị bạch phát
Dã khiếu nễ ngã sạ kinh sạ hỉ
Hoàn toàn di vong tự kỷ
Cánh khả tương hứa sinh dữ tử
Lai nhật thùy lai vấn khởi
Thiên cao phong cấp song song viễn phi

Ái thị vi tiếu, thị cuồng tiếu, thị sỏa tiếu, thị ngoạn tiếu
Hoặc thị vi trứ hại phạ tịch liêu
Ái thị hà giá thị hà cố tại hà thế hựu hà dĩ
Đối giá thế giới tuyết trung tống hoả

Thùy hoàn kỳ cầu thập ma
Khả ca khả khấp đích kết quả
Thùy năng thừa thụ hậu quả
Phiên thiên phúc hải bất uổng tối sơ

Nha nha…
Hữu nễ hữu ngã tuyết trung tống hoả

Nam: Ái tại mê mê hồ hồ Bàn Cổ sơ khai tiện khai thủy
Giá lãng lãng mạn mạn cựu cố sự

Nữ: Ái tại mông mông lung lung, tiền sinh kim sinh hoà tha sinh
Phạ thác quá liễu dã bất hội tri

Nam: Điệt lạc mang mang hồng trần nam bắc tây đông diệc tương y
Phạ độc tự hoạt trứ một ý nghĩa

Nữ: Ái thị lai lai hồi hồi tình ti nhất ti hữu nhất ti

Hợp: Chí nễ dữ ngã chí sinh vĩnh bất khoát biệt thì
____________________

Nhan đề:Thần thoại - Tình thoại
Trình bày: Châu Hoa Kiện, Tề Dự
Lời: Lâm Tịch
Nhạc: Châu Hoa Kiện
Biên khúc: Hồng Kính Nghiêu

Hợp ca: Yêu, là hân hoan vui sướng, là gian khó cực cùng
là mê đắm nồng nàn, là tơ tình muôn mối
Cũng là để ngày sau viết nên câu chuyện truyền kỳ
Yêu, là thề non hẹn biển, là bén tiếng quen hơi
là mãi mãi thời gian, là mái đầu bạc trắng

Khiến ta và em chợt hoảng hốt, chợt vui mừng
Phải hoàn toàn quên lãng bản thân mình
Mới có thể cùng nhau nói lời thề sinh tử
Để ngày sau ai là người mãi hỏi
Về đôi tình lữ giữa trời cao gió lộng chắp cánh cùng bay

Yêu, là cười êm dịu, là cười cuồng điên
là cười ngẩn ngơ, là cười ngạo nghễ
Nhưng cũng là run rẩy trước nỗi cô đơn
Yêu, có giá trị gì, vì lý do gì, ở thế giới nào, yêu bởi vì sao
Là giữa cõi đời này thắp lên ngọn lửa trong băng tuyết

Ai có thể mong chờ sự vẹn toàn
Của một kết cục có thể khiến ta cười, cũng có thể làm ta khóc
Ai có thể gánh chịu hậu quả
Của buổi ban đầu chọc trời khuấy nước ấy

Haaaa… haaa…
Chỉ cần có em và có ta, thắp lên ngọn lửa trong băng tuyết

Nam: Yêu em từ lúc mơ mơ hồ hồ thuở Bàn Cổ sơ khai khởi thủy
Câu chuyện lãng mạn của ngày xưa ấy

Nữ: Yêu chàng giữa chốn mông lung của kiếp trước, kiếp này và đến cả kiếp sau
Chỉ sợ rằng bỏ lỡ cơ hội mà không biết

Nam: Lưu lạc giữa hồng trần bát ngát
dù đông tây nam bắc ta vẫn kề sát vai nhau
Có ý nghĩa gì nữa đâu nếu chỉ còn lại một mình

Nữ: Yêu là mối tơ tình quấn quýt lại qua, hết sợi này đến sợi khác

Hợp ca: Cho người và ta kiếp này vĩnh viễn không biết đến biệt ly…


Oct 9 2004

14 July, 2005

Dịch thơ

Tôi không biết mình viết bài này để kỷ niệm điều gì. Nhưng tự nhiên cảm thấy muốn viết một chút, nhân chuyện dịch xong bài Mô ngư nhi của Nguyên Hiếu Vấn. Và có lẽ cũng để tri ân anh, một dịch giả mà tất cả những người yêu Kim Dung, cũng như tôi, đều muốn nói lời cảm ơn chân thành nhất, vì Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long bát bộ, và vì anh là người đã đem đến cho tôi sự tự tin trong dịch thuật.

Một ngày nào đó cách đây hai năm, tôi ngồi đọc bài từ của Khuông Việt – bài Nguyễn lang quy tiễn Lý Giác về Tống, và ngẫu nhiên có ý tưởng khá ngông cuồng là dịch nó thành thơ. Cái bước chân non nớt đầu tiên ấy đã nhận được sự khích lệ khéo léo của anh: “bản dịch của em hay hơn bản của Ngô Tất Tố”.

Tôi biết anh là một người rất khách quan; bởi thế cho nên lời ngợi khen ngắn ngủi ấy của anh đã khơi dậy được sự tự tin và niềm kiêu hãnh của một cậu bé mới chập chững bước chân vào thi đạo như tôi. So sánh mình và một danh gia trong giới dịch thuật Việt Nam? Tôi dù có kiêu ngạo đến đâu cũng không dám vọng tưởng điều ấy. Nhưng biết đâu, trong một phút ngẫu hứng bất ngờ, với một bài thơ mà riêng mình yêu thích, tôi có thể miễn cưỡng sánh ngang với tiền nhân?

Như thế là đủ, đủ để tôi thấy rằng thi ca không phải là toán học, không phải chỉ có một đáp án duy nhất cho một phương trình, và cái bóng của những Tản Đà, những Khương Hữu Dụng, những Nam Trân không phải là vĩnh cửu.

Vậy là đã hai năm, kể từ ngày tôi đặt bút dịch bài thơ đầu tiên. Có thể anh không nhận ra, có thể anh nhận ra mà không nói, nhưng tôi tự biết mình đã phạm hai sai lầm trong bài thơ ấy. Có lẽ chỉ mình tôi nhớ, có lẽ chỉ mình tôi hiểu, có lẽ trong mười người đọc không có lấy một người lưu ý, nhưng điều quan trọng hơn cả là tôi vẫn nhớ rằng mình đã sai lầm. Hôm nay, khi viết cho anh những dòng chia buồn và bối rối lựa chọn ngôn từ, tôi lại nhớ chuyện xưa. Bản dịch ấy tôi dùng hai chữ “đế hương” và “xe mây”. Đế hương chỉ Tống triều, “xe mây” là một cách gọi cho đẹp lời thoát ý. Nhưng quê hương của Ngọc đế, vân xa của Vương mẫu, mấy ai biết đó cũng là một hình tượng chỉ sự ra đi của một kiếp người, gót hạc tiên du.

Dịch thơ, nó là một điều gì rất thách thức. Tôi không thích cái tư tưởng dịch là phản, traduttore – traditore mà người ta vẫn hay nói. Đối với tôi, đó chẳng qua là sự nhút nhát, cố gắng lấy nó để bào chữa cho sự không-hoàn-thiện-tất-yếu của một bản dịch. Vẫn biết một bản dịch không bao giờ có thể là hoàn hảo, là hình ảnh trung thực tuyệt đối của nguyên tác qua tấm gương ngôn ngữ, nhưng treo lơ lửng cái câu “traduire, c'est trahir” trước mặt mình, đó chính là một sự đè nén đối với sức sáng tạo và lòng khát khao đối mặt với thách thức của ngôn từ.

Nếu ai đó hỏi tôi, thần tượng (dùng tạm thôi, không có ý gì đâu, ha ha) của tôi trong dịch thuật là ai, tôi có thể trả lời, đó là Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân. Ông, như lời Vương Trí Nhàn đề tựa bản dịch Nam Hoa kinh từng viết “là một dịch giả rất tự tin. Chỉ những con người đầy bản lĩnh mới dám chấp nhận những thách thức lớn”. Trong bản kê sách dịch của ông, có Ly tao, có Sử ký, có Nam Hoa kinh, có Hồng Lâu mộng, có Dưới mái Tây hiên. Cái hùng khí bất phàm của một con-người-dịch-thuật như ông làm tôi hâm mộ.

Mỗi một lần đặt bút dịch thơ, tôi không bao giờ dám miễn cưỡng mình. Có những bài thơ tôi từng hứa dịch cho người, hoặc hứa dịch cho mình từ một năm về trước, nhưng tôi vẫn chưa làm. Không phải vì không có thời gian, mà vì tôi chưa tìm cho mình được con đường vừa ý để thâm nhập vào thế giới ấy, và tôi đành chờ một dịp khác.

Dịch thơ, với tôi là một điều gì đó giống như “người ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Dịch thơ, bản thân nó không phải là một thứ phần mềm để có bản alpha, beta, Release Candidate 1 hoặc 2, không vừa ý với bản này thì viết ra bản khác. Đó là một cái gì đó thiêng liêng và đơn nhất, nó là sự thai nghén và bùng nổ của xúc cảm và trí tuệ, chợt đến chợt đi mà chính ta không nắm bắt và điều khiển được bao giờ.

Dịch thơ, nó là cơ hội để ta dung hòa mình trong thế giới của thi nhân, không còn là một kẻ đứng ngoài bàng quan thưởng thức, mà nói như Haracourt, ta “gieo gửi một chút mình” vào thế giới của người thơ, ta thấy mình phảng phất trong những dòng chữ huy hoàng “trăng không hận trăng thường khi tròn mãi, trời có tình trời hẳn cũng già thôi”…

Có khi tôi dịch thơ trong đêm khuya, lúc tĩnh lặng một mình, có khi tôi dịch thơ vào sáng sớm, len lén viết từng dòng trong giờ học ở trường. Có khi dịch tặng nàng, có khi nổi hứng học đòi Nguyễn Bính, có khi dịch giúp bạn bè. Cũng có khi đơn giản vì em chat lâu quá, tôi ngồi đợi em chẳng biết làm chi, ừ thì dịch vậy. Chính trong dịch thơ mà tôi đã biết thế nào là thần giao cách cảm, chính lúc ồn ào náo nhiệt lại là khi tôi viết ra những câu mà tôi cảm thấy mãn ý nhất từ trước tới giờ.

Dịch thơ, là một thế giới nơi bạn có thể cảm nhận đến cùng cực cái ma lực vô biên và cả cái bất lực tuyệt đối của ngôn từ. Có những khi bạn kinh hoàng vì chỉ cần đảo nửa câu thôi, chuyển một ý thôi là có sự nhịp nhàng tuyệt diệu. Có những khi bạn muốn điên đầu vì không sao tìm nổi một chữ để ép vần, đành chua chát gạt bỏ cả mấy câu vừa dịch để làm lại từ đầu. Logic chẳng có ý nghĩa gì ở đây cả, những gì tồn tại chỉ là nhạc tính du dương và sự hài hòa câu chữ, mà ta chỉ có thể cảm nhận một cách vô hình.

Dịch thơ chữ Hán, nhất là Đường thi và Tống từ, nó là một sức ép trên ba chiều đổ lại: cái cô đọng tinh túy của một ngôn ngữ thường khi không có lấy một chữ thừa; cái hàn lâm cao quý tự nhiên tỏa ra trong từng lời thơ súc tích; cái hàm ngôn ẩn dụ của vô số điển tích mơ hồ. Tôi lang thang trên mạng một thời gian, được và bị đọc bản dịch của khá nhiều dịch giả, nghiệp dư cũng như chuyên nghiệp. Có những bản dịch làm tôi choáng váng vì mức độ tài hoa, nếu không muốn nói là xuất thần của nó; nhưng cũng có những bản dịch làm tôi cảm thấy xót xa cho nguyên tác phải chịu một sự hành hạ nhường này. Có những bản dịch phá cách của những người bạn trạc tuổi tôi, ngây thơ mà khéo léo lạ thường; có những bản dịch của những bậc thức giả, tuân thủ nghiêm cẩn vận luật, nhưng không biết vì sao tôi lại thấy chúng có chút gì thô ráp đến đáng thương. Lại nhớ một câu nói ngày xưa “đường vào đạo có bốn vạn tám ngàn ngõ”, có lẽ dịch thơ cũng vậy chăng?

Hãy chọn cho mình một con đường riêng để đi… Hãy đọc, hãy hiểu, hãy đam mê, và hãy trân trọng, đó là những gì bạn cần có khi dịch một bài thơ.


Apr 19 2004

Lục Ngạc ai từ

Khúc ai điếu cho đài hoa màu biếc

Nhân gian tự hữu hoa như vũ
Thiếp thị hoa trung đệ kỷ nhân


Định mệnh chăng, khi tên nàng là Lục Ngạc? Một đài hoa mong manh hiền dịu, phong kín mối u tình mới chớm đưa hương, hiến dâng đời mình để nâng niu cái đẹp của muôn hoa nơi trần thế. Trong vạn kẻ yêu hoa, có bao người nhớ tới đài hoa bé bỏng u buồn có tên là Lục Ngạc…

Từ nhỏ nàng đã thiếu đi hơi ấm tình thương của mẹ, sống trong vòng kiềm tỏa khắc nghiệt của cha. Lạ xiết bao khi song thân nàng, kẻ lòng lang dạ sói, kẻ khắc nghiệt vô tình, nhưng dòng máu trong huyết quản nàng lại rạo rực thương yêu. Phải chăng ái tình cao quý của loài người, sau năm trăm năm khép mình khắc kỷ ở chốn hoang sơn đã ngưng tụ lại trong con tim thanh khiết đó?

Lòng hoài mong một tình yêu vô vọng, mắt chứng kiến cảnh phụ mẫu tương tàn, nhưng đài hoa xanh biếc ấy đã giã biệt trần gian với nụ cười mãn nguyện trong tiếng gọi “Dương lang”.

Nàng khác gì Mỵ Châu ngày nọ, phản bội cha vì tình nhân thâm ái. Nàng khác gì Văn Quân thuở trước, gạt gia quy hát khúc Phượng cầu hoàng... Màu dại khờ của lông ngỗng năm xưa vĩnh viễn không sánh nổi sắc biếc xanh của dòng máu đa tình nơi u cốc. Nhưng để làm chi, khi tiếng lòng em không có lấy một lời ca đồng điệu? Dương Qua đối với nàng cũng như một cánh chim hồng trên biển lớn, chỉ ngoảnh đầu nhìn lại nhân gian trong thoáng chốc trước khi theo Long nhi bay tới tận chân trời.

Trong vô vàn thiếu nữ của Kim Dung, có mấy ai bạc mệnh nhường này? Người con gái ấy, cũng như tên mình, sao bao dung đến thế, sao khiêm nhường đến thế, chỉ cần một cái nhìn đượm sắc quan hoài của người mình say đắm để an nhiên theo đến cõi vô thường…

Thương thay, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng... Nấm mộ đơn côi của người trinh nữ động Tuyệt Tình có lẽ chỉ nên ghi một dòng duy nhất “Nàng đã yêu, không được yêu, và qua đời”.

Xin hãy coi khúc đoản thiên này như một đóa Tình hoa rơi trên nấm mồ lạnh lẽo, khóc thương cho mảnh hồn trinh bạch của Đoạn Trường nhai.

Ta lặng dâng nàng, cho trời mây phảng phất nhuốm thời gian...


Feb 8 2004